Các lĩnh vực hợp tác giữa hai Cơ quan thuế được quy định tại MOU bao gồm: trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực chính sách thuế và quản lý thuế như: xây dựng chính sách thuế; quản lý thuế đối với thương mại điện tử và hoạt động bán lẻ; dịch vụ thuế kỹ thuật số cho người nộp thuế; trao đổi thông tin tự động vì mục đích thuế (bao gồm thương mại điện tử); chuyển đổi số trong quản lý thuế (bao gồm quản lý dữ liệu Lớn); truyền dữ liệu trực tuyến về các giao dịch từ máy tính tiền; các lĩnh vực khác được đồng thuận bởi cả hai bên bằng văn bản.
Các hình thức hợp tác giữa hai Cơ quan thuế bao gồm: trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm về các lĩnh vực hợp tác nêu trên; tổ chức các buổi hội thảo, phiên họp, làm việc nhóm và tham quan thực tế ở cả hai nước; đào tạo cán bộ; chuyển giao kinh nghiệm và kiến thức giữa các Bên; các hình thức hợp tác khác thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình được hai bên nhất trí bằng văn bản.
Lãnh đạo Tổng cục Thuế Việt Nam biết: Việc ký kết MOU là bước tiến trong quan hệ kinh tế, ngoại giao, chính trị giữa hai nước; góp phần giúp Việt Nam nâng cao năng lực phát triển, xây dựng chính sách thuế và quản lý thuế. Việc ký kết MOU sẽ tạo cơ hội để hai bên triển khai các hoạt động hợp tác song phương góp phần củng cố quan hệ hợp tác trong lĩnh vực thuế. Toàn cầu hóa và nền kinh tế số đặt ra những thách thức mới về quản lý thuế, trong đó có xói mòn cơ sở tính thuế và chuyển lợi nhuận (BEPS), quản lý thuế đối với các doanh nghiệp đa quốc gia, các hoạt động kinh tế trên không gian mạng...
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, địa chính trị quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp, việc tăng cường khả năng phân tích, dự báo kinh tế - tài chính, cải thiện khả năng quản lý thuế là quan trọng để góp phần vào bình ổn kinh tế vĩ mô, bảo đảm tính bền vững của nền tài chính công, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Liên bang Nga là quốc gia có truyền thống quan hệ tốt đẹp với Việt Nam, được đánh giá có nền kinh tế vững mạnh, đạt nhiều thành tựu tích cực trong những năm gần đây với tăng trưởng GDP cao (so với mặt bằng chung Liên minh châu Âu - EU), kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, có nhiều kinh nghiệm mà Việt Nam dễ học hỏi, tiếp thu.
Về kinh tế - thương mại, theo Bộ Công thương: Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai bên đạt 3,63 tỷ USD, tăng nhẹ 2,3% so với cùng kỳ năm 2022; trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Nga đạt 1,74 tỷ USD, tăng 12%. Nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường này đạt 1,89 tỷ USD, giảm 5,2%.
Riêng trong 5 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai bên đạt 1,96 tỷ USD, tăng 51,4% so với cùng kỳ năm 2023; trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Nga đạt 955,6 triệu USD, tăng 44,7%. Nhập khẩu từ Nga về Việt Nam đạt 1 tỷ USD, tăng 58,4% so với cùng kỳ năm 2023.
Nhiều nhóm hàng thế mạnh của Việt Nam như nông sản, thủy sản, may mặc, thiết bị máy móc tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao sang thị trường Nga. Ngược lại, ta cũng tăng nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu như than đá, phân bón, hóa chất, thực phẩm… phục vụ sản xuất, kinh doanh đáp ứng cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài.
Về đầu tư, theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết tháng 5 năm nay Liên bang Nga có 186 dự án tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư xấp xỉ 1 tỷ USD. Trong khi đó Việt Nam có khoảng 25 dự án đầu tư tại Nga với tổng vốn đầu tư khoảng 3 tỷ USD. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Nga gồm: điện thoại, điện tử, dệt may, giầy dép, nông, thủy, hải sản các loại…; các mặt hàng nhập khẩu chính gồm: than đá, lúa mỳ, sắt thép, phân bón, ô tô, máy móc, thiết bị các loại...
Hợp tác trong lĩnh vực truyền thống là dầu khí tiếp tục được duy trì và củng cố, với hai doanh nghiệp tiêu biểu là Vietsovpetro và Rusvietpetro tiếp tục hoạt động có hiệu quả. Hợp tác đầu tư trong các lĩnh vực khác như chế biến thực phẩm, sản xuất - lắp ráp ô tô… cũng từng bước phát triển.
Với tình hình chính trị, kinh tế và mối quan hệ của hai nước như trên, việc ký kết MOU sẽ là bước tiến trong quan hệ kinh tế, ngoại giao, chính trị giữa hai nước; góp phần giúp Việt Nam nâng cao năng lực phát triển, xây dựng chính sách thuế và quản lý thuế, đặc biệt trong các lĩnh vực mà Liên bang Nga có kinh nghiệm, như: quản lý thuế đối với thương mại điện tử, dịch vụ thuế kỹ thuật số cho người nộp thuế, trao đổi thông tin tự động vì mục đích thuế, chuyển đổi số trong quản lý thuế...
Bản ghi nhớ này sẽ được áp dụng kể từ ngày các bên ký kết trong thời hạn 3 năm, trừ khi một bên gửi thông báo bằng văn bản cho bên kia nêu ý định chấm dứt việc áp dụng bản ghi nhớ.
Anh Minh
Link nội dung: https://dulichgiaitri.vn/nganh-thue-viet-nam-va-nga-ky-ban-ghi-nho-ve-hop-tac-a170940.html