Quản lý nhà giáo theo các yếu tố hành chính không còn phù hợp
So với nguồn nhân lực khác của đất nước, đội ngũ nhà giáo có những đặc trưng khác biệt và tính đa dạng cao, quyết định đến định hướng công tác quản lý nhà nước về nhà giáo. Cụ thể, hiện nay cả nước có gần 1,6 triệu nhà giáo. Như vậy, nhà giáo chiếm số lượng lớn trong tổng số nguồn nhân lực của quốc gia, đặc biệt là đội ngũ trí thức của đất nước; chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số viên chức của các ngành, lĩnh vực.
Đội ngũ nhà giáo làm việc trong cả cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập, đa dạng về cấp học, trình độ, nơi công tác (từ cấp mầm non đến đại học, từ đào tạo trình độ sơ cấp đến đào tạo trình độ sau đại học; từ vùng thuận lợi đến vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn; từ nông thôn đến thành thị, từ vùng đồng bằng đến cả vùng hải đảo, biên giới). Nhà giáo là nữ có tỷ lệ cao hơn, nhà giáo bao gồm cả người Việt Nam và người nước ngoài.
Nhà giáo có hoạt động nghề nghiệp đặc biệt với sản phẩm là nhân cách người học, có tính chuyên nghiệp trong việc dạy học, tổ chức, hướng dẫn, tư vấn, truyền cảm hứng cho học sinh trong việc tìm kiếm tri thức, sản sinh tri thức, rèn luyện phẩm chất và năng lực cá nhân, là "cầu nối" để chuyển giao những tri thức, những ý tưởng sáng tạo, những kỹ năng, thái độ sống từ thế hệ này sang thế hệ khác; từ đó đòi hỏi tính gương mẫu, tự giác, linh hoạt và sáng tạo cao. Nhà giáo có thời gian làm việc được tính theo số tiết hoặc số giờ giảng dạy, giáo dục theo năm học hoặc khóa học hoặc quy đổi theo tuần làm việc.
Với mục tiêu phát triển và với những đặc điểm riêng biệt nhưng rất đa dạng của nhà giáo thì việc quản lý nhà nước về nhà giáo theo định hướng quản lý nhân sự - tức là quản lý các yếu tố hành chính liên quan đến việc sử dụng nhà giáo mà ít quan tâm đến tiềm lực và sự phát triển của nhà giáo không phải là phương thức phù hợp.
Thay vào đó, nhiều ý kiến cho rằng, cần phải chuyển từ quản lý nhân sự sang quản trị nguồn nhân lực để tạo môi trường, điều kiện cho mỗi nhà giáo được phát triển nhiều nhất, có động lực làm việc lớn nhất, đóng góp cho nền giáo dục và đào tạo nhiều nhất nhằm đạt cùng mục tiêu của chính nhà giáo và mục tiêu giáo dục. Trong đó nhà giáo, cả công lập và tư thục, thấy được chính mình, nghề nghiệp của mình, sứ mệnh của mình, con đường thăng tiến của mình để rõ định hướng rèn luyện, phát triển.
Để giải quyết các yêu cầu nêu trên, dự án Luật Nhà giáo đề xuất giao quyền chủ động cho ngành giáo dục trong tuyển dụng, sử dụng nhà giáo. Trong đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan chủ trì xây dựng chiến lược, đề án, kế hoạch phát triển, tổng biên chế đội ngũ nhà giáo thuộc thẩm quyền quản lý trình cấp có thẩm quyền quyết định; ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn tuyển dụng, nội dung thực hành sư phạm trong thi/xét tuyển nhà giáo; điều phối biên chế nhà giáo trong các cơ sở giáo dục công lập theo số lượng được cơ quan có thẩm quyền giao.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, các quy định nêu trên nhằm tăng cường vai trò chủ trì của các cơ quan quản lý giáo dục trong công tác quản lý nhà nước về nhà giáo, nhằm giúp ngành giáo dục có sự chủ động trong quản lý, phát triển đội ngũ nhà giáo. Điều này phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Kết luận số 91-KL/TW ngày 12/8/2024 về tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Bên cạnh đó, với việc được giao quyền chủ động nêu trên, cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục mới có thể thực hiện được việc quản lý đội ngũ nhà giáo bằng chuyên môn, chất lượng, thay vì quản lý bằng các công cụ hành chính không phù hợp với đặc thù nghề nghiệp của đối tượng này. Công cụ quản lý bằng chuyên môn sẽ giúp chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo về chất lượng, từ đó, sẽ giúp nâng cao chất lượng của toàn bộ hệ thống giáo dục.
Ngoài ra, các quy định về quản lý nhà nước về nhà giáo được thiết kế trong dự án Luật Nhà giáo còn tháo gỡ nhiều bất cập trong quản lý nhà nước về nhà giáo hiện nay sẽ được tháo gỡ, như tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ đối với các cấp học mầm non, phổ thông diễn ra nhiều năm nay, những bất cập đối với công tác quản lý đội ngũ nhà giáo ngoài công lập...
Thúc đẩy phát triển đội ngũ nhà giáo
Dự thảo Luật Nhà giáo trình Quốc hội cho ý kiến lần đầu gồm 9 Chương và 50 Điều. Luật Nhà giáo áp dụng với nhà giáo trong các cơ sở giáo dục công lập và nhà giáo trong các cơ sở giáo dục ngoài công lập. Điều này giúp "lấp đầy" khoảng trống về pháp lý với nhà giáo ngoài công lập khi Luật Viên chức chỉ chế tài với "người Việt Nam được tuyển dụng và làm việc trong cơ sở giáo dục công lập".
Lần đầu tiên, vị trí pháp lý của nhà giáo ngoài công lập được xác lập đầy đủ, đồng bộ với tư cách nhà giáo chứ không chỉ là người lao động theo cơ chế hợp đồng lao động.
Theo thống kê, đội ngũ nhà giáo hiện nay có tới 6 nhóm đối tượng, là công chức, viên chức, người lao động, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an, người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong các trường trong hệ thống các cơ quan Đảng, Mặt trận, đoàn thể. Các nhóm nêu trên lại gắn với từng cấp học và trình độ đào tạo dẫn đến một số quy định về nhà giáo thực hiện chưa đồng bộ, thống nhất.
Luật Nhà giáo chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo thông qua hệ thống chức danh, chuẩn nghề nghiệp nhà giáo với các tiêu chuẩn bám sát yêu cầu về năng lực nghề nghiệp nhưng vẫn đảm bảo yếu tố riêng biệt gắn với từng cấp học và trình độ đào tạo.
Theo dự thảo Luật Nhà giáo, chính sách tuyển dụng, sử dụng được quy định gắn với đặc điểm hoạt động nghề nghiệp. Trong đó, việc tuyển dụng nhà giáo đảm bảo phải có thực hành sư phạm nhằm lựa chọn người có đủ năng lực gắn với chuẩn nghề nghiệp nhà giáo, đáp ứng hoạt động nghề nghiệp nhà giáo theo từng cấp học, trình độ đào tạo.
Các chính sách điều động, biệt phái, thuyên chuyển, dạy liên trường, liên cấp đối với nhà giáo trong các cơ sở giáo dục công lập được quy định đầy đủ, làm căn cứ để bố trí, phân công nhà giáo phù hợp với đặc điểm hoạt động nghề nghiệp và các yêu cầu của ngành giáo dục.
Với dự thảo Luật Nhà giáo, nhà giáo được bảo vệ thông qua quyền và những điều không được làm đối với nhà giáo theo định hướng tăng quyền chủ động, sáng tạo và tăng tính bảo vệ nhà giáo trong hoạt động nghề nghiệp.
Lương của nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp; có chế độ ưu tiên trong chế độ tiền lương và phụ cấp cao hơn so với các nhà giáo khác đối với nhà giáo cấp học mầm non; công tác ở nơi đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo; trường chuyên biệt, trường chuyên biệt khác; thực hiện giáo dục hòa nhập; là người dân tộc thiểu số và nhà giáo ở một số ngành nghề đặc thù; Nhà giáo tuyển dụng, xếp lương lần đầu được xếp tăng 1 bậc lương trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp.
Tuổi nghỉ hưu của nhà giáo có quy định riêng phù hợp với đặc điểm hoạt động nghề nghiệp. Trong đó, nhà giáo trong các cơ sở giáo dục mầm non nếu có nguyện vọng thì có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 5 tuổi so với quy định và không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi.
Thời gian qua, Ban soạn thảo dự án Luật Nhà giáo đã tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị, trao đổi, lấy ý kiến… với quan điểm xuyên suốt là ban hành Luật Nhà giáo để thúc đẩy phát triển đội ngũ nhà giáo, thu hút người có trình độ, tâm huyết vào nghề và "giữ chân" được đội ngũ nhà giáo, chứ không phải xây dựng luật quy định thiết chế để quản lý nhà giáo.
Phương Liên
Link nội dung: https://dulichgiaitri.vn/du-an-luat-nha-giao-giao-quyen-chu-dong-tuyen-dung-su-dung-giao-vien-a189624.html