Trình bày tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, việc xây dựng Luật nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, như Nghị quyết số 36-NQ/TƯ ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị; Chỉ thị số 45- CT/TƯ ngày 19/5/2015, Kết luận số 12-KL/TƯ ngày 12/8/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác người Việt Nam ở nước ngoài... Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khi thực hiện thủ tục nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam.
Qua đó, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết, thúc đẩy chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc nhân kỷ niệm 50 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung gồm 3 Điều, tập trung vào 2 chính sách lớn, đó là:
Chính sách 1: Nới lỏng điều kiện liên quan đến việc nhập quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài... được nhập quốc tịch Việt Nam.
Chính sách 2: Nới lỏng điều kiện liên quan đến việc trở lại quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam được trở lại quốc tịch Việt Nam.
Dự thảo luật có một số nội dung cơ bản, như: sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người chưa thành niên nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ hoặc người chưa thành niên có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam.
Làm rõ điều kiện “có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam”
Báo cáo thẩm tra do Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng nêu rõ, Ủy ban tán thành sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Ủy ban Pháp luật và Tư pháp cho rằng, nội dung dự thảo Luật cơ bản phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng được đề ra tại Nghị quyết số 36-NQ/TƯ, Chỉ thị số 45-CT/TƯ và Kết luận số 12-KL/TƯ của Bộ Chính trị song đề nghị, cần tiếp tục làm rõ để thể chế hóa đầy đủ "cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch" theo yêu cầu tại Nghị quyết số 57-NQ/TƯ của Bộ Chính trị để thu hút, trọng dụng các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành là người Việt Nam ở nước ngoài.
Ủy ban Pháp luật và Tư pháp cũng cơ bản tán thành phạm vi sửa đổi, bổ sung; tán thành trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam quy định tại khoản 6, khoản 9 Điều 1 của dự thảo Luật (sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 21, khoản 3 Điều 25 của Luật Quốc tịch Việt Nam hiện hành).
Tán thành việc quy định trong Luật các điều kiện mang tính nguyên tắc đối với trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam mà vẫn được giữ quốc tịch nước ngoài quy định tại điểm c khoản 7 Điều 1 của dự thảo Luật (sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 23 của Luật Quốc tịch Việt Nam hiện hành).
Về điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam (khoản 4 Điều 1 của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Điều 19 của Luật Quốc tịch Việt Nam), Ủy ban cơ bản tán thành nội dung sửa đổi, bổ sung Điều 19 của Luật Quốc tịch Việt Nam như quy định tại khoản 4 Điều 1 của dự thảo Luật nhằm góp phần tăng cường khối đại đoàn kết, thúc đẩy chính sách hòa hợp dân tộc và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Ngoài ra, đề nghị tiếp tục nghiên cứu, làm rõ để quy định phù hợp điều kiện “có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam” đối với người xin nhập quốc tịch Việt Nam mà có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ, ông nội và bà nội, ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; làm rõ thời gian thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên tại điểm đ khoản 1 Điều 19 có cần liên tục không...
Link nội dung: https://dulichgiaitri.vn/noi-long-dieu-kien-lien-quan-den-viec-nhap-quoc-tich-va-tro-lai-quoc-tich-viet-nam-a214668.html