Xin chào bà, được biết, trước khi trở thành nữ phóng viên chiến trường, bà là một sinh viên khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Bà đã đến với nghề báo như thế nào?
Năm 1970, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt, tôi đang chuẩn bị bước vào năm cuối của Khóa 12, khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Nghe tin Ban Thống Nhất Trung ương và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức một lớp đào tạo cấp tốc phóng viên cho các mặt trận phía Nam, tôi và nhiều sinh viên khác đã tình nguyện đăng ký. Sau gần nửa năm đào tạo, ngày 16/4/1971, chúng tôi lên đường vào chiến trường Khu 5. Ngày đó, chúng tôi đều chỉ có một ước mơ lớn là vào chiến trường, góp sức mình cho cuộc chiến đấu của dân tộc nên không ai có thể ngồi yên trên ghế nhà trường. Chúng tôi đi bộ nhiều ngày, bàn chân giẫm đá tai mèo tướp máu, vượt đèo dốc hiểm trở, chưa kể còn bị sốt rét ác tính, “đặc sản” của Trường Sơn hành hạ. Bản thân tôi cũng đã ba lần bị sốt rét. Nhiều sinh viên đi cùng đoàn chúng tôi đã vĩnh viễn nằm lại trên đường vì mắc sốt rét mà chưa kịp vào tới chiến trường. Trên đường đi, chúng tôi còn chứng kiến rất nhiều đau thương, mất mát do giặc Mỹ gây ra. Nhà thơ Nguyễn Mỹ (tác giả bài thơ “Cuộc chia ly màu đỏ” nổi tiếng) cũng bị giặc Mỹ bắn chết ngay tại rẫy mì khi chúng đổ quân càn quét vào khu sản xuất Nước Ta của Khu ủy. Nhưng, tất cả những gian khổ, ác liệt ấy không làm chúng tôi chùn bước mà chỉ càng hun đúc thêm tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
Bà có thể kể về những tháng ngày bà làm phóng viên chiến trường?
Tôi đã có gần 1.500 ngày ở chiến trường với tư cách là một phóng viên mặt trận. Tôi đã gắn bó máu thịt với vùng đất Hiệp Đức, Tiên Phước và đặc biệt là vùng thung lũng Quế Sơn. Chúng tôi xuống ở hẳn với các đại đội, làm đủ các công việc của một người lính như đi tải đạn, cõng gạo, vận chuyển thương binh, chị nuôi... Tranh thủ lúc rảnh rỗi thì đi thu thập tài liệu, khai thác nhân vật và tập viết các phóng sự ngắn ngay tại mặt trận. Tôi không bao giờ quên lời nhắc nhở của Tư lệnh Quân khu Chu Huy Mân mà cánh lính thường gọi một cách kính trọng là anh Hai Mạnh. Ông ân cần bảo tôi: “Trước tiên, hãy sống và làm việc như một người lính. Có nhiều vốn sống thực tế rồi sẽ viết được”.
Và để hiểu được người lính, phóng viên chiến trường sẽ phải sống thật, phải lăn lộn, gắn bó với họ, ngay tại mặt trận và nếu cần cũng phải cầm súng xông lên tuyến đầu như một người lính thực thụ. Có thời gian, 10 đêm liền, tôi và anh em trong tiểu đoàn bộ hầu như thức trắng. Trong nhiều trận đánh, những tràng đạn trung liên của giặc từ trên nỗng cát quét sát chiến hào, nhưng phóng viên chiến trường chúng tôi vẫn ngẩng cao đầu. Như lần tôi xin ra chốt của Đại đội 42, tiểu đoàn 4, Trung đoàn 12 ở Chương Hòa Tây, nơi tập trung hỏa lực, phi pháo địch nên rất căng thẳng, ác liệt để được chiến đấu và lấy tư liệu cho các bài viết của mình. Một trong các sinh viên khoa Văn là Nguyễn Hồng khi xuống Điện Bàn, đã đổi khẩu K54 lấy khẩu súng trường CKC và ra trụ ngoài chốt với các chiến sĩ. Khi bị bọn địch đánh tập hậu, Hồng vẫn kiên quyết bám chốt, không chịu rút lui và đã hy sinh oanh liệt. Hồng ngã xuống, không phải với vai trò “nhà báo” mà như một người lính cầm súng chiến đấu trực tiếp với kẻ thù.
Và những tác phẩm của bà đã ra đời trong hoàn cảnh đó?
Ngày đó, phương tiện làm báo không hiện đại như bây giờ, chúng tôi thường gõ bài rồi gửi qua các máy thông tin của Trung đoàn về quân khu, hoặc chuyển cho giao liên mang bài đi. Làm phóng viên chiến trường, tôi tự rèn cho mình thói quen ghi chép tư liệu nhiều nhất có thể. Sổ sách không có và cũng để đề phòng khi bị địch bắt sẽ bị lộ thông tin, tôi phải viết trên những tờ giấy pơ luya mỏng tang rồi giấu kỹ. Sau này chính nhờ 3 cuốn sổ giấy pơ luya mà tôi có tư liệu để hoàn thành cuốn truyện ký “Chạm vào ký ức”.
Chiến trường đã cung cấp cho chúng tôi rất nhiều đề tài sống động. Như lần tôi có mặt tại trận địa pháo địch ở Tam Quan. Pháo vừa ngớt, cậu liên lạc đưa tôi đến một chiếc hầm cá nhân, phía trên có gác mấy tấm ván dừa che chắn mảnh đạn rồi bảo: “Nửa tháng nay tụi em toàn ngủ ngồi, không có chỗ mắc võng. Chị chịu khó ngủ tạm một đêm nhé!”. Tôi vừa giở tấm võng được xếp ngay ngắn làm chỗ ngả lưng. Cả đêm ấy tôi không sao ngủ được. Cứ nghĩ đến tình cảm của những người lính dành cho mình, tôi lại ứa nước mắt vì xúc động.
Từ góc nhìn của một phóng viên thế hệ trước, bà thấy công việc làm nhà báo trong thời bình thế nào?
Thời nay, trên mặt trận văn hóa tư tưởng, dù không có tiếng súng nhưng cuộc chiến chống các thế lực chống phá đất nước vẫn vô cùng cam go. Các nhà báo phải chiến đấu với kẻ thù vô hình sử dụng nhiều thủ đoạn, chiêu thức khác nhau. Nếu không có bản lĩnh chính trị, nhà báo sẽ dễ bị dao động, suy thoái tư tưởng.
Đó còn là “kẻ thù” tồn tại trong mỗi nhà báo khi đứng trước cám dỗ, mua chuộc về vật chất. Ngày trước, trên chiến trường, chúng tôi chỉ có ý chí duy nhất là quyết tâm đánh đuổi giặc xâm lược, giành độc lập cho dân tộc. Nhưng thời nay, khi đi tác nghiệp, nhất là khi viết bài về tiêu cực, nhà báo sẽ đứng trước nguy cơ bị mua chuộc bằng tiền tài, vật chất. Nhà báo sẽ chọn viết bài đấu tranh với cái xấu hay là nhận tiền để dừng lại? Thực tế, đã có trường hợp nhà báo bị bắt vì nhận đút lót, tống tiền doanh nghiệp.
Ngoài ra, trong bối cảnh công nghệ phát triển, các phóng viên, nhà báo hiện nay cũng đang phải đối mặt với những thách thức mới mà chỉ vài năm trước, chúng ta còn chưa hình dung ra. Ví dụ như sự cạnh tranh với trí tuệ nhân tạo khi AI có thể viết tin, bài chỉ trong vòng một vài phút...
Nhân dịp ngày Báo chí cách mạng Việt Nam 21/6, bà có chia sẻ gì với các nhà báo hôm nay?
Phóng viên, nhà báo trong mỗi giai đoạn đều có sứ mệnh khác nhau. Là phóng viên chiến trường, chúng tôi đã xông pha giữa lửa đạn, góp sức vào cuộc chiến đấu giành độc lập cho dân tộc. Trong thời bình, các phóng viên vẫn cần tiếp tục cổ vũ tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc trong công cuộc phát triển đất nước.
Dù ở thời nào thì nghề báo cũng là nghề cao quý và nhà báo cũng cần giữ vững đạo đức, phẩm chất của một nhà báo, đặc biệt là sự dũng cảm, trung thực, có bản lĩnh, yêu nghề, không ngại đi thực tế. Tôi thấy hiện nay có một số phóng viên nhà đi viết bài nhưng chẳng hỏi gì, chỉ xin bài phát biểu, báo cáo về cắt, dán là xong. Làm vậy thì bài báo sẽ không đọng lại nhiều với chính người viết lẫn độc giả. Một nhà báo giỏi nghề, thực sự cần nhiều hơn như thế. Tôi tin rằng, AI có thể viết tin, bài nhanh nhưng chỉ có nhà báo bằng xương, thịt mới có thể thổi hồn, mang những giá trị nhân văn vào tác phẩm của mình.
Xin cảm ơn Đại tá, phóng viên chiến trường Vũ Thị Hồng!
Link nội dung: https://dulichgiaitri.vn/lam-bao-trong-thoi-binh-kho-hon-nhieu-thoi-chien-a219647.html