GS.TSKH Nguyễn Đình Đức khẳng định Nghị quyết 71 được ví như “Khoán 10” trong giáo dục đại học Việt Nam
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Thứ nhất, điểm đột phá ấn tượng nhất trong văn kiện lần này là đột phá về tư duy, nhân thức và quyết tâm, quyết liệt thay đổi mạnh mẽ về thể chế trong giáo dục và đào tạo. Nghị quyết khẳng định giáo dục đào tạo không chỉ là quốc sách quan trọng hàng đầu, mà còn là nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh của dân tộc.
Tăng đầu tư ngân sách cho giáo dục và đội ngũ nhà giáo là sự quan tâm thiết thực của Đảng
Một cam kết rất mạnh mẽ trong Nghị quyết là dành ít nhất 20% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, cùng với các chế độ ưu đãi lớn cho đội ngũ nhà giáo. Theo Giáo sư, điều này sẽ tác động thế nào đến chất lượng nguồn nhân lực và sức hút của nghề giáo trong thời gian tới?GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: "Có thực mới vực được đạo", việc tăng đầu tư, tăng tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, cho đội ngũ nhà giáo không chỉ thể hiện sự quan tâm thiết thực của Đảng cho giáo dục, mà còn chính là giải pháp cụ thể của Đảng và Nhà nước góp phần thực hiện bằng được mục tiêu đề ra cho ngành giáo dục. Sự đầu tư thỏa đáng này sẽ đóng vai trò quan trọng để thực hiện, hiện đại hóa nhà trường, để tất cả các trường đều được "trường ra trường, lớp ra lớp". Đồng thời có đầu tư, sẽ có trang thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nghiên cứu và gắn hoạt động đổi mới sáng tạo của các trường với doanh nghiệp tốt hơn và nhanh hơn nữa.
Việc nâng cao chế độ đãi ngộ là sự động viên rất lớn của Đảng và Nhà nước với các nhà giáo. Đời sống, thu nhập được cải thiện, nhà giáo sẽ yên tâm công tác, toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp trồng người, tăng sức thu hút của nghề nhà giáo với xã hội.
Những giải pháp tài chính trên là những đòn bẩy rất quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đẩy nhanh tốc độ hội nhập quốc tế của hệ thống giáo dục Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức hướng dẫn sinh viên Pháp sang Việt Nam thực tập
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Với xuất phát điểm về xếp hạng của các trường đại học Việt Nam như hiện nay, để đạt được mục tiêu có trường đại học xếp hạng top 100 thế giới là câu chuyện không đơn giản và dễ dàng. Nhưng chính vì mục tiêu đó mà chúng ta phải đổi mới tư duy, đổi mới đầu tư, đổi mới cơ chế chính sách và đổi mới hành động để giáo dục đại học Việt Nam cất cánh.
Để đạt được mục tiêu này, trước hết phải quan tâm phát triển tiềm lực KHCN trong các trường đại học. Đây là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất. Muốn xếp hạng cao, các trường đại học phải có đội ngũ cán bộ giảng viên đại học giỏi giang và ưu tú, không chỉ công bố khoa học đỉnh cao mà còn có năng lực đổi mới sáng tạo, gắn kết thật tốt các hoạt động đào tạo và nghiên cứu, đổi mới sáng tạo với doanh nghiệp; có hoài bão cống hiến và chấn hưng đất nước. Mà đào tạo con người, nhất là đội ngũ cán bộ khoa học giỏi bên cạnh đầu tư cũng cần sự chín về thời gian.
Hai là, phải chăm lo cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm hiện đại trong nhà trường. Thực tế, với ưu thế về nghề nghiệp và xu thế phát triển của thời đại, tôi cho rằng trường có lĩnh vực KHTN, kỹ thuật công nghệ mạnh sẽ dễ sớm đạt được mục tiêu xếp hạng cao này nhanh hơn.
Ba là, phải tạo cơ chế để các trường đại học thu hút được nhân tài cho sự phát triển, xây dựng được những tập thể - các nhóm nghiên cứu mạnh, xuất sắc trong nhà trường.
Và yếu tố vô cùng quan trọng là đổi mới quản trị đại học. Các trường đại học phải được tự chủ mạnh mẽ và toàn diện. Bài học về tự chủ đại học của Nhật Bản từ năm 2004 là một bài học quý: Trước tự chủ chỉ có 2 trường là Đại học Tổng hợp Tokyo và ĐH Tổng hợp Osaka xếp hạng 100 thế giới, sau tự chủ đại học chỉ một thời gian ngắn đã có 5 trường đại học top 100 thế giới, trong đó có cả trường đại học ngoài công lập. Tự chủ đại học là cơ chế, nhưng cũng chính là lợi thế, là nguồn lực, nhiều khi còn quan trọng và đem lại những hiệu quả nhanh và mạnh hơn đầu tư tiền bạc trực tiếp. Khoán 100, khoán 10 trước đây trong nông nghiệp là một ví dụ sức mạnh của tự chủ và cơ chế chính sách. Nghị quyết 71 chính là khoán 10, khoán 100 trong giáo dục đại học.
Nghị quyết 71 chủ trương ưu tiên và khuyến khích đầu tư phát triển trường đại học theo mô hình đổi mới sáng tạo và kỹ thuật công nghệ hiện đại, nâng quy mô đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiện, kỹ thuât, công nghệ lên đạt 35% tổng quy mô đào tạo là rất phù hợp với xu thế của thời đại. Tôi cho rằng nếu đồng loạt triển khai quyết liệt và hiệu quả những giải pháp căn cốt và cơ bản như trên, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu có cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam có mặt trong top 100 trên các bảng xếp hạng đại học của thế giới.
Việt Nam đặt mục tiêu có một đại học lọt top 100 thế giới, 8 trường trong top 200 châu Á
Nghị quyết cũng nhấn mạnh đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai và tích hợp chuẩn năng lực số, trí tuệ nhân tạo vào chương trình giáo dục. Theo Giáo sư, đâu là cơ hội và thách thức khi triển khai những yêu cầu mới này trong hệ thống phổ thông và đại học?
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Đây là chủ trương rất cần thiết và cấp bách trong bối cảnh hiện nay. Năm 2024, giải Nobel Vật lý đã được trao cho 2 giáo sư: John J. Hopfield (Mỹ) và Geoffrey E. Hinton (Canada), những nhà khoa học tiên phong trong lĩnh vực máy học và mạng lưới thần kinh nhân tạo, những nền tảng cho công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) hiện đại. Công trình của họ đã tạo ra các phương pháp để máy móc học và xử lý thông tin, mở đường cho sự phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân tạo ngày nay. Cũng trong năm 2024, nhà hóa học Mỹ David Baker đoạt giải Nobel nhờ công trình nghiên cứu, phát triển một công cụ dự đoán protein do AI điều khiển tên RoseTTAFold. Trong khi đó, Demis Hassabis và John M. Jumper đoạt giải Nobel 2024 do đã phát triển thành công một hệ thống AI giải quyết được bài toán dự đoán cấu trúc protein làm đau đầu giới khoa học suốt 50 năm nay.
Những thông tin trên, cùng với sự ra đời của siêu trí tuệ nhân tạo (AGI - là những hệ thống có thể học mọi tri thức, có nhận thức, vượt qua trí thông minh của con người) và sự hiện diện của AI trong hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, cho thấy AI đã trở thành công nghệ lõi mũi nhọn, hết sức cần thiết phải đưa AI vào trong nhà trường, và hơn thế, các trường đại học, viện nghiên cứu của Việt Nam phải có chiến lược để tiên phong nghiên cứu và phát triển, làm chủ một số công nghệ AI phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Việc phổ cập tiếng Anh làm ngôn ngữ thứ 2, cũng như chuyển đổi số và sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong nhà trường ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là chín muồi và hết sức cần thiết để giáo dục Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại và hội nhập. Được trang bị những hành trang này ngay từ những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường cho đến giảng đường đại học, cùng với nền tảng kiến thức STEM, thế hệ trẻ Việt Nam sẽ có năng lực cạnh tranh rất tốt, có cơ hội làm việc trong bất cứ môi trường nào, trong nước cũng các tập đoàn toàn cầu, đa quốc gia cũng như tạo cho Việt Nam lợi thế thu hút đầu tư của các công ty nước ngoài.
Sau nhiều năm thực hiện Đề án ngoại ngữ 2020, năng lực tiếng Anh của học sinh Việt Nam có cải thiện đáng kể, tuy nhiên số liệu thống kê cho thấy năm 2023, 2024 vẫn có gần nửa triệu bài thi, chiếm 44% (2023) và 42% (2024) số lượng thí sinh dự thi môn tiếng Anh có điểm dưới trung bình; năm 2025 môn tiếng Anh được tự chọn, nhưng vẫn có đến 38% số thí sinh chọn thi môn tiêng Anh có điểm dưới trung bình. Như vậy là xuất phát điểm việc dạy và học tiếng Anh trong các trường phổ thông của Việt Nam nhìn chung còn rất thấp.
Với số lượng giáo viên tiếng Anh cũng có hạn, biên chế sinh viên trong lớp học của ta còn lớn, có lớp lên đến 45-50 học sinh thì giáo viên tiếng Anh sẽ bị quá tải, do đó việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong việc dạy và học tiếng Anh có vai trò vô cùng quan trọng. AI hỗ trợ giáo viên tiếng Anh chấm nói, chấm viết, soạn bài giảng, đánh giá tổng thể năng lực từng học sinh. AI hỗ trợ người học luyện nói, luyện viết cũng như cả 4 kỹ năng. Và các trường đại học, viện nghiên cứu và các doanh nghiệp công nghệ của Việt Nam cần vào cuộc để hỗ trợ ngành giáo dục trong việc ứng dụng AI trong dạy và học, và cấp bách là trong việc dạy và học tiếng Anh.
Bên cạnh đó, là chương trình, giáo trình và bài giảng. Để tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2, thì không chỉ dạy môn tiếng Anh để thi IELTS, mà còn phải có chương trình, giáo trình, bài giảng và giáo viên dạy các môn chuyên môn như toán, lý, hóa… bằng tiếng Anh.
Còn với việc đưa AI vào như môn học, như một công cụ hỗ trợ giảng dạy và học tập trong nhà trường, cũng đối mặt với việc cần xây dựng chương trình, giáo trình và các quy định chuẩn mực trách nhiệm và đạo đức, liêm chính trong việc sử dụng AI phù hợp với các bậc học và chuẩn bị đội ngũ giáo viên.
Tóm lại, những chủ trương, đường lối của Nghị quyết 71 về tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2, và về chuyển đổi số và sử dụng AI trong nhà trường là hoàn toàn đúng đắn và bắt kịp với xu thế của thời đại. Để thực hiện được những nội dung trên, chúng ta phải nắm rất rõ thực trạng, để có giải pháp đúng, hiệu quả, và quan trọng nhất là phải có chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo và quyết tâm rất lớn của ngành giáo dục, có đầu tư bài bản và sự đồng hành của học sinh, phụ huynh, các doanh nghiệp và toàn xã hội với nhà trường và ngành giáo dục.
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: Đích cuối cùng của Nghị quyết 71, và cũng là mong mỏi của những người thầy như chúng tôi, là giáo dục Việt Nam sẽ phải thực sự là nền giáo dục thực chất "học thật - nhân tài thật", đào tạo ra những con người "vừa hồng vừa chuyên", có năng lực trình độ chuyên môn tốt, trình độ cao, giỏi ngoại ngữ, giỏi AI, nhưng cũng mang trong mình tình yêu Tổ quốc nồng nàn với khát vọng và hoài bão cống hiến vì hạnh phúc của nhân dân. Ngành giáo dục phải đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những thế hệ tinh hoa làm chủ đất nước và kế cận tương lai, xứng đáng là nguyên khí của quốc gia, để dân tộc Việt Nam độc lập, tự chủ và trường tồn; và Việt Nam phải có những cơ sở giáo dục đại học uy tín, sánh ngang với các trường đại học hàng đầu của nước ngoài.
Tôi cho rằng Nghị quyết 71 là Nghị quyết cải tổ giáo dục Việt Nam. Tôi kỳ vọng Nghị quyết 71 sẽ đưa giáo dục Việt Nam, trong đó và trước hết là giáo dục đại học Việt Nam cất cánh, để đồng hành và cộng hưởng với Nghị quyết 57 về KHCN và Nghị quyết 59 về Hội nhập quốc tế, thực hiện khát vọng quốc gia giàu mạnh, hùng cường, Việt Nam sẽ sánh vai và trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045.
Thu Trang