Có những người - oái oăm thay đôi khi lại là những người thân nhất, những bằng hữu lâu năm nhất của nhà thơ - đọc thơ cứ như đang dò bản đồ hoặc lần theo những nghi hoặc tự họ tưởng tượng ra.
Họ muốn biết giọt mưa rơi ở đâu, vào lúc mấy giờ, rơi lên ai, và có gây ngập không? Họ đọc thơ mà như xem dự báo thời tiết : giọng trầm trọng, mắt nghi ngờ, tay cầm thước đo của điều tra viên. Một bài thơ buồn đối với họ là dấu hiệu báo bão; còn một câu thơ tình - lập tức bị hỏi: "Ngôi nhân xưng em trong thơ là em nào?"
Thơ, đáng ra chỉ cần được thở, giờ bị buộc phải có địa chỉ thường trú. Người đọc đòi căn cước công dân cho ngôn từ, muốn bắt cái vô hình ký biên bản tồn tại. Nhưng thơ, giống như một giọt mưa , chỉ có thể sống khi nó không bị buộc phải xác định tọa độ.
Lại có những người khác nữa đọc thơ cứ như đang xem phim tài liệu: muốn mỗi câu thơ phải có địa chỉ, mỗi nỗi buồn phải có số nhà, và mỗi ẩn dụ phải nộp bản khai nhân thân. Một nữ thi sĩ từng phẫn nộ kể: Thơ, nhất là thơ tình thường được dệt nên từ những sợi chữ buồn bã, những thi ảnh ướt đẫm day dứt.
Đọc xong, người ta hỏi "sao em buồn thế, xảy điều gì à?". Nghe mà em chỉ muốn vả cho cái miệng thốt ra câu hỏi ấy một cái, dù là một cái vả nhẹ nhàng, mang đậm tính nhân văn, vì đó là một câu hỏi rất "củ chuối": tưởng là an ủi, nhưng kỳ thực đang cố giải thích điều không thể giải thích. Cứ như mỗi khi gió thổi qua trang giấy, họ lại hỏi: "Gió nhà ai đấy?"
Quả thật, người đọc bây giờ thông minh quá, thông minh đến mức không còn biết ngu ngơ trước cái đẹp. Trên thực tế, nhà thơ, đôi khi chỉ mượn ngôn từ để hong khô nỗi lòng, còn người đọc lại tưởng mình vừa phát hiện một vụ án cảm xúc.
Một câu thơ run rẩy được thả xuống, lập tức có người hỏi: "Sao tâm trạng thế ?", "Viết cho ai đấy?" Cứ như mỗi bài thơ là một bản tường trình tình cảm, còn nhà thơ chỉ là nhân viên khai báo rung động.
Thơ vốn sinh ra để đi qua những khoảng mờ của tâm hồn, thế mà các vị cảnh sát cảm xúc lại soi đèn pin vào từng chữ, đòi tìm chứng cứ của hiện thực. Họ muốn biết "cô gái trong thơ là ai", "anh ấy có thật không", "hai người còn yêu nhau không". Thơ - sinh ra để mở những cánh cửa - giờ bị đối xử như một vụ án.

Có một lần tôi viết về mưa, người ta hỏi mưa đó rơi ở đâu. Tôi đáp: rơi trong lòng. (Ảnh/Nguồn: MXH)
Người đọc thành quan toà, còn nhà thơ thì ngồi cúi đầu trên ghế nhân chứng, run run khai: "Tôi không biết cô gái ấy là ai - có thể là tia nắng sớm, có thể là mùa thu, có thể là một ký ức đi ngang qua chiều. Tôi chỉ mượn chữ để thở thôi." Nhưng họ không tin. Họ nói: "Phải có thật chứ. Không ai viết hay thế nếu không đau thật."
Có lẽ họ quên rằng thơ không phải viết bằng vết thương, mà bằng trí nhớ của vết thương, rằng chỉ những người có đủ tưởng tượng mới viết được những điều không thật mà vẫn khiến người khác tin.
Thơ không phải là sổ tay ghi chép những điều xảy ra trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, nhưng một số người đời lại đọc theo cách như đang "rình" xem nhật ký của ai đó. Cứ như thể chữ "anh" trong thơ phải trùng khớp với một tài khoản Facebook, còn chữ "em" thì chắc chắn là người từng chụp chung mười tấm ảnh.
Khi nhà thơ viết: "Tôi chạm vào vết thương của gió để biết mình còn da thịt," họ hỏi: "Ai làm anh tổn thương sâu sắc thế?"
Và khi nhà thơ đáp: "Gió," họ lại nói: "Đừng nói tránh, nói thật đi". Họ cần nỗi buồn có gương mặt, cần nước mắt có sơ yếu lý lịch.
Một xã hội đánh mất khả năng mơ mộng thì thơ là nạn nhân đầu tiên. Người ta quên rằng thơ là cách con người xoa dịu nỗi cô đơn trước hư vô. Nó chỉ thì thầm với chính mình, để nỗi buồn có chỗ ngồi, và những điều không nói được có cách thở ra.
Thơ không việc gì phải giải thích với đời. Nhưng đời thì sốt ruột, cứ ghé sát mà hỏi: "Có chuyện gì à?" - một câu hỏi tử tế mà tàn nhẫn, vì nó kéo nhà thơ xuống mặt đất, nơi mọi nỗi buồn phải hợp lý, mọi khao khát phải được biện minh.
Thời mạng xã hội, thơ bị biến thành "content". Một bài thơ được đo bằng số lượt thích và tốc độ lan truyền. Cái đẹp không còn được phép im lặng; nó phải được "thả tim".
Thơ tình biến thành lời thú tội, thơ triết lý biến thành chú thích sâu, thơ hài hước biến thành ảnh chế, thơ thế sự biến thành bản tin có vần, còn trường ca bị cắt nhỏ thành chuỗi story 24 giờ.
Nhà thơ - kẻ từng trò chuyện với cõi vô hình - nay bị gọi là người sản xuất cảm xúc ngắn, một dạng video 7 giây. Trong thế giới ấy, thậm chí nỗi buồn cũng bị nghi ngờ là chiêu trò câu tương tác.
Bạn viết một bài thơ buồn, lập tức có người gửi biểu tượng trái tim và bình luận: "Rồi sẽ ổn thôi." Câu nói ấy nhân hậu như …một cái tát nhẹ vào thơ. Ô hay, thơ đâu cần được chữa lành; bởi thơ chính là sự chữa lành. Nỗi buồn trong thơ không phải là bệnh, mà là phương thuốc chữa lành trái tim bị vôi hóa của con người. Nhưng người ta không hiểu...
Họ muốn nhà thơ vui lên, họ muốn mọi câu thơ đều phải mỉm cười. Rồi một ngày nào đó, những người nhân hậu ấy sẽ yêu cầu: "Làm ơn viết thơ tích cực hơn, truyền năng lượng lên chút". Khi đó sẽ thật thảm họa nếu các nhà thơ đồng loạt đeo khẩu trang cảm xúc và ngồi thiền trên bàn phím.
Người đọc bây giờ đọc nhanh hơn cả nhịp tim của chính họ. Họ không còn dừng lại khi đọc một câu thơ. Họ phải bình luận, gắn nhãn cảm xúc, thể hiện rằng mình hiểu. Cái im lặng từng là phẩm chất của tri âm nay bị thay thế bằng emoji - một ký hiệu cảm xúc thay cho cảm xúc thật . Hãy đáng lo cho một khoảnh khắc con người không còn biết im lặng, thơ cũng không còn biết nói. Hãy nhớ rằng, thơ là tiếng nảy mầm của im lặng khi nó chạm vào cảm xúc.
Thơ không cần được hiểu; thơ chỉ cần được cảm. Nhưng người ta thích hiểu. Họ muốn giải nghĩa từng dòng, mổ xẻ từng chữ, hỏi: "Nói thế là sao?" - như thể cái đẹp có thể được phân tích bằng sơ đồ. Họ quên rằng, hiểu đồng nghĩa với làm câm lặng thi ca.
Thơ không cần được hiểu, nó cần được ở cùng. Giống như khi ta ngồi bên một người đang khóc, ta không hỏi lý do - chỉ lặng yên, thế là đủ.
Một người bạn sinh viên của tôi kể : "Có một lần tôi viết về mưa, người ta hỏi mưa đó rơi ở đâu. Tôi đáp: rơi trong lòng. Họ chất vấn : cụ thể là phố nào?" Trời ạ. Thế giới này giờ cần cả bản đồ cho giọt mưa. Người ta quên mất rằng, thơ không có tọa độ, thơ chỉ có độ sâu. Nhưng người ta sợ độ sâu ấy, nên cứ bơi quanh mép chữ, rồi nói: "Khó hiểu quá".
Tất nhiên rồi - làm sao hiểu được thứ vốn không để hiểu, mà để tan vào, như sương tan trong sáng sớm
Đôi khi, giữa tất cả hỗn loạn ấy, vẫn có những người đọc im lặng. Họ không thả tim, không hỏi han - chỉ đọc rồi ngồi yên. Có thể họ nhớ ai đó, có thể chẳng nhớ gì, chỉ thấy một điều rất nhỏ chuyển động trong lòng - một hơi thở, một vết rạn. Những người như thế, dù ít, chính là những người giữ lại hơi thở của thơ.
Còn những bạn hỏi: "ai trong thơ," xin hãy nhớ: trong thơ không có ai cả. Chỉ có nhà thơ - một người đang cố sống sót bằng chữ. Nếu buộc phải tìm danh tính, thì người trong thơ có thể chính là bạn - người đọc - kẻ cũng từng buồn, từng yêu, từng hỏi "vì sao" trong một đêm không ai trả lời.
Nên lần sau, nếu bắt gặp một bài thơ buồn, đừng hỏi "Sao em buồn vậy?" và cũng đừng an ủi: "mọi chuyện đều có cách giải quyết, chớ cả nghĩ em nhé!" Hãy đọc, và để nỗi buồn ấy lặng lẽ tìm hình hài trong bạn. Một giọt mưa không cần bản đồ để tìm đất. Nó rơi đâu cũng là rơi, tan đâu cũng là sống. Thơ cũng thế - chỉ cần được cảm, không cần được xác minh.
Trong thế giới của tọa độ, mọi thứ đều bị định vị, chỉ còn thơ là vẫn lang thang. Nó không thuộc về ai, nhưng chạm vào mọi người. Vì thế, xin đừng tò mò "anh ấy là ai", "mưa rơi ở phố nào". Hãy đọc, và để giọt mưa ấy tan trong bạn. Có thể lúc đó, chính thơ đang làm điều nó sinh ra để làm: cứu cả hai ta khỏi cái ngu xuẩn của hiện thực có tọa độ.
(Bản tường trình của giọt mưa bị nghi ngờ… có thật)
Link nội dung: https://dulichgiaitri.vn/dung-hoi-mua-roi-o-pho-nao-a238441.html