Một tỷ cây xanh và bước chuyển mới của nông thôn Việt Nam

Không chỉ hoàn thành vượt mục tiêu trồng cây, chương trình một tỷ cây xanh đang tạo bước ngoặt cho kinh tế lâm nghiệp khi hàng triệu hộ dân được hưởng lợi từ rừng sản xuất, rừng bản địa và những mô hình sinh kế xanh.

Từ trồng rừng đến tạo sinh kế bền vững

Ngày 5/12, tại Hội nghị tổng kết Đề án trồng một tỷ cây xanh giai đoạn 2021-2025 diễn ra ở Đà Nẵng, Ông Triệu Văn Lực, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho hay, sau 5 năm triển khai Việt Nam, đề án đã vượt mục tiêu với gần 1,44 tỷ cây được phủ xanh. Không chỉ tạo thêm màu xanh cho đô thị và nông thôn, chương trình còn mở ra hướng sinh kế mới cho hàng triệu hộ dân gắn với rừng và kinh tế xanh.

Ông chia sẻ thêm, mục tiêu quan trọng nhất của Đề án một tỷ cây xanh là tạo ra hệ sinh thái phát triển rừng mang tính xã hội hóa, huy động nguồn lực tư nhân và cộng đồng thay vì phụ thuộc vào ngân sách. "Phát triển rừng phải đi đôi với tạo sinh kế cho người dân", ông Lực nhấn mạnh.

1 tỷ cây xanh và cuộc đổi mới âm thầm ở nông thôn Việt Nam- Ảnh 1.

Ông Triệu Văn Lực, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, chia sẻ về sinh kế của người dân từ việc trồng rừng.

Theo ông Lực, trồng rừng sản xuất là nội dung có tác động kinh tế rõ nhất. Người dân được hướng dẫn chuyển đổi từ những mô hình rừng chu kỳ ngắn sang các loài cây cho giá trị cao và bền vững hơn. Hai nhóm chính gồm, cây sinh trưởng nhanh như keo, bạch đàn, mỡ, bồ đề – phù hợp làm nguyên liệu chế biến. Cây bản địa hoặc cây lâm sản ngoài gỗ như: sâm, sa nhân, thảo quả… giúp gia tăng giá trị, tạo sinh kế đa dạng dưới tán rừng.

Nhiều hoạt động kinh tế mới đã hình thành, từ chế biến gỗ lớn, cung ứng dược liệu, đến hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng và tín chỉ carbon. Việt Nam đã thí điểm thành công thị trường carbon rừng ở 6 tỉnh Bắc Trung Bộ, và đang mở rộng sang Nam Trung Bộ, Tây Nguyên. Đây được kỳ vọng là nguồn thu ổn định cho cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, định hướng trồng rừng cũng được điều chỉnh. "Chúng ta ưu tiên cây bản địa có hệ rễ sâu, tán rộng, không rụng lá theo mùa để giữ đất, giữ nước tốt hơn. Với rừng sản xuất, có thể chuyển hóa sang trồng gỗ lớn để giảm rủi ro thiên tai", ông Lực nói.

Việt Nam cũng đang đẩy mạnh các cam kết quốc tế về giảm phát thải, Net Zero vào năm 2050, truy xuất nguồn gốc gỗ theo EUDR và cấp chứng chỉ rừng bền vững. "Lâm nghiệp là một trong những lĩnh vực thể hiện sự tiên phong trong hành động khí hậu", ông Lực khẳng định.

Địa phương hưởng lợi, sinh kế đổi thay dưới tán rừng

Tại Quảng Trị, nơi từng nhiều năm đối mặt với thực trạng đất trống đồi trọc, chương trình trồng một tỷ cây xanh đã tạo chuyển biến rõ rệt. Ông Phan Văn Phước, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh, cho biết, tỉnh đã trồng hơn 25 triệu cây trong giai đoạn 2021–2025, gồm 12 triệu cây phân tán và 13 triệu cây rừng tập trung.

"Đề án không chỉ phủ xanh đất mà còn mang lại màu xanh cho sinh kế người dân", ông Cước nói. Quảng Trị đã lồng ghép chương trình vào kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, chủ động quy hoạch vùng trồng phù hợp từng tiểu vùng khí hậu. Các vùng nguyên liệu gỗ lớn, cây bản địa và dược liệu được hình thành, giúp người dân chuyển từ khai thác rừng tự nhiên sang sản xuất bền vững.

1 tỷ cây xanh và cuộc đổi mới âm thầm ở nông thôn Việt Nam- Ảnh 2.

Sau 5 năm triển khai, Việt Nam đã vượt mục tiêu với gần 1,44 tỷ cây được phủ xanh.

Tỉnh cũng phát triển vườn ươm giống công nghệ cao, đa dạng hóa cây trồng, đồng thời mở rộng mô hình trồng dược liệu dưới tán rừng. Nhiều dự án sinh kế được hỗ trợ bởi nguồn vốn Trung ương, ODA và các tổ chức quốc tế. "Mục tiêu là giảm áp lực lên rừng tự nhiên và tạo sinh kế bền vững, nhất là cho đồng bào dân tộc thiểu số", ông Cước cho biết thêm.

Trong khi đó, Đà Nẵng, đô thị đặc biệt đang mở rộng các vùng sinh thái, coi rừng sản xuất là một trụ cột kinh tế nông thôn. Ông Trần Út, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường, cho biết, thành phố có khoảng 300.000 ha rừng sản xuất, là lợi thế để phát triển sinh kế.

1 tỷ cây xanh và cuộc đổi mới âm thầm ở nông thôn Việt Nam- Ảnh 3.

Ông Trần Út cho rằng, việc quản lý sau trồng là then chốt để duy trì thành quả trồng rừng.

Tuy nhiên, thành phần cây trồng hiện nay chủ yếu là keo chu kỳ ngắn, hạn chế chức năng môi trường và giá trị kinh tế. Vì vậy, Đà Nẵng đang định hướng chuyển đổi sang mô hình trồng rừng gỗ lớn, cây trồng đa mục tiêu, có giá trị kinh tế và sinh thái.

Ba nhóm giải pháp then chốt gồm: chuẩn hóa cây giống, xác định danh mục loài cây phù hợp rừng sản xuất; cải tiến phương thức canh tác để tăng chất lượng rừng; phát triển chuỗi giá trị lâm nghiệp, kết nối thị trường, chế biến và tiêu thụ, đảm bảo người dân có thu nhập ổn định.

Để duy trì thành quả, ông Trần Út cho biết việc quản lý sau trồng là then chốt. Ngành lâm nghiệp đang xây dựng cơ chế phân công trách nhiệm tới từng đơn vị, rà soát quy hoạch trồng mới, đồng thời nghiên cứu chế tài xử phạt hành vi xâm hại cây xanh.

"Trồng cây chỉ là bước đầu. Chăm sóc tốt và vận hành hiệu quả mới tạo ra giá trị thật", ông Út nói.

Hơn 1,44 tỷ cây xanh và những thách thức còn lại

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, sau 5 năm thực hiện, chương trình đã trồng 1,44 tỷ cây, vượt hơn 43% mục tiêu. Nhiều tỉnh đã sáng tạo trong triển khai, thu hút sự tham gia mạnh mẽ của doanh nghiệp, tổ chức quốc tế và người dân. Riêng nguồn xã hội hóa đóng góp hơn 7.000 tỷ đồng, chiếm 45,9% tổng vốn thực hiện đề án.

Tuy vậy, thách thức vẫn không nhỏ. Biến đổi khí hậu khiến mưa lớn, hạn hán, bão lũ kéo dài, ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ sống của cây trồng. Quỹ đất trồng rừng mới ngày càng khan hiếm do áp lực phát triển kinh tế – xã hội. Ở đô thị, đất cây xanh chỉ chiếm 1,2%, thấp hơn nhiều so với quy chuẩn. Xung đột quy hoạch, chặt phá tự phát, thiếu chế tài với cây phân tán hay chất lượng giống không đồng đều vẫn xảy ra.


Link nội dung: https://dulichgiaitri.vn/mot-ty-cay-xanh-va-buoc-chuyen-moi-cua-nong-thon-viet-nam-a243485.html