Công nghệ đã thay đổi ngành dịch vụ vận tải như thế nào?

Admin
(Chinhphu.vn) - Sự xuất hiện loại hình xe hợp đồng ứng dụng công nghệ phần mềm như Grab, Be, Gojek... đã làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu đội xe. Chất lượng phương tiện được cải thiện; doanh nghiệp đầu tư xe đời mới, trang bị điều hòa, wifi, GPS, camera hành trình. Các quy định kỹ thuật cũng được cập nhật theo lộ trình kiểm soát khí thải Euro 4, Euro 5, đặc biệt là với xe tải và xe khách...
Công nghệ đã thay đổi ngành dịch vụ vận tải như thế nào?- Ảnh 1.

Xe buýt CNG sử dụng nhiên liệu chính là khí thiên nhiên nén (CNG)

Cục Đường bộ Việt Nam có báo cáo gửi Bộ Xây dựng đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược phát triển dịch vụ vận tải đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. 

Qua hơn 10 năm triển khai thực hiện Chiến lược phát triển dịch vụ vận tải đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, vận tải đường bộ tăng trưởng cả về sản lượng vận tải hàng hóa và hành khách.

Từ năm 2016 đến nay, tổng sản lượng vận tải hành khách đường bộ ước đạt 190,4 triệu hành khách (HK), khối lượng luân chuyển ước đạt 10,87 tỷ HK.Km; tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 11,8%. Tổng sản lượng vận tải hàng hóa đường bộ ước đạt 50 triệu tấn, khối lượng luân chuyển ước đạt 2,6 tỷ T.Km, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 13,36%.

Tính đến đầu năm 2025, vận tải đường bộ vẫn đảm nhận hơn 90% khối lượng vận chuyển hành khách và trên 70% tổng khối lượng vận chuyển hàng hóa.

Công nghệ đã thay đổi ngành dịch vụ vận tải

Vận tải hành khách tuyến cố định phủ khắp cả nước với khoảng 10.039 tuyến và hơn 13.000 hành trình. Cả nước có 60/63 tỉnh, thành phố (theo cách tính địa phương cũ) tổ chức hoạt động vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt, với hơn 8.978 xe, vận chuyển khoảng 1 tỷ lượt hành khách mỗi năm.

Riêng tại Hà Nội và TP.HCM, cơ bản hình thành mạng lưới phủ rộng trên toàn địa bàn, chất lượng dịch vụ không ngừng nâng cao, khẳng định được vai trò của giao thông công cộng trong khắc phục ùn tắc giao thông, giảm ô nhiễm môi trường, xây dựng hệ thống giao thông đô thị bền vững.

Phương tiện vận tải cũng tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng. Nếu như năm 2013 cả nước có tổng số 121.897 phương tiện kinh doanh vận tải thì đến hết năm 2024, số lượng này tăng gấp gần 8 lần với khoảng 956.062 xe ô tô kinh doanh vận tải đã lắp đặt thiết bị giám sát hành trình với tổng số 100.303 đơn vị kinh doanh vận tải.

Trong đó, hoạt động vận tải hành khách theo tuyến cố định có 17.659 xe (chiếm 5,07%); xe buýt có 8.950 xe (chiếm 2,57%); xe hợp đồng có 245.764 xe (chiếm 70,53%); xe du lịch có 4.629 xe (chiếm 1,33%); xe taxi có 70.241 xe (chiếm 20,16%); vận tải hàng hoá, xe tải có 607.379 xe; xe taxi tải có 233 xe (chiếm 0,04%).

Công nghệ đã thay đổi ngành dịch vụ vận tải như thế nào?- Ảnh 2.

Sự xuất hiện loại hình xe hợp đồng ứng dụng công nghệ phần mềm như Grab, Be, Gojek... đã thúc đẩy cạnh tranh và làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu đội xe

Đáng nói, Cục Đường bộ Việt Nam nhận định: Sự xuất hiện loại hình xe hợp đồng ứng dụng công nghệ phần mềm như Grab, Be, Gojek... đã thúc đẩy cạnh tranh và làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu đội xe. Chất lượng phương tiện được cải thiện rõ rệt; nhiều doanh nghiệp đầu tư xe đời mới, trang bị điều hòa, wifi, GPS, camera hành trình, góp phần nâng cao trải nghiệm và an toàn cho hành khách. Các quy định kỹ thuật cũng được cập nhật theo lộ trình kiểm soát khí thải Euro 4, Euro 5, đặc biệt là với xe tải và xe khách.

Một số địa phương đã đưa vào vận hành xe buýt sử dụng nhiên liệu sạch như CNG (Hà Nội, TP.HCM, Cần Thơ), và thí điểm xe buýt điện (VinBus), đánh dấu những bước đầu trong quá trình chuyển đổi xanh trong vận tải hành khách công cộng.

Vận tải công cộng chưa phát triển đồng đều

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình triển khai Chiến lược, theo Cục Đường bộ Việt Nam vẫn còn tồn tại bất cập. Cơ cấu thị phần vận tải chưa đạt mục tiêu tái cân đối, vận tải đường bộ vẫn chiếm tỷ trọng quá lớn, gây áp lực cho hạ tầng và gia tăng chi phí logistics. Mạng lưới xe buýt, vận tải hành khách công cộng chưa phát triển đồng đều, một số tỉnh đến nay vẫn chưa có tuyến xe buýt nội tỉnh.

Lực lượng doanh nghiệp vận tải còn manh mún, thiếu liên kết, quy mô nhỏ, trình độ quản lý còn hạn chế (tỷ lệ các đơn vị có quy mô vừa và nhỏ chiếm khoảng 82%). Công nghệ vận tải tuy đã được ứng dụng tại các đô thị lớn nhưng chưa phổ biến ở vùng nông thôn, miền núi. Nhiều mô hình hợp tác xã, doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đủ năng lực đổi mới phương tiện, tiếp cận vốn hoặc đầu tư vào nền tảng số.

Công tác quản lý nhà nước ở một số nơi còn lúng túng, thiếu chủ động, chưa đồng bộ giữa các ngành và cấp quản lý. Dữ liệu vận tải tuy đã được số hóa nhưng chưa được khai thác hiệu quả, chưa có hệ thống phân tích và cảnh báo sớm rủi ro trong vận hành.

Đặc biệt, cơ chế quản lý các loại hình vận tải mới như xe công nghệ, xe hợp đồng điện tử vẫn còn bất cập, dẫn đến tình trạng chồng chéo, thiếu thống nhất trong điều hành và kiểm soát. Tình trạng xe dù, hoạt động vận tải không đăng ký, không phép, vi phạm lộ trình vẫn tồn tại ở nhiều thành phố lớn, gây thất thu thuế, cạnh tranh không lành mạnh và ảnh hưởng đến uy tín ngành.

Việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ lái xe, điều hành và cán bộ quản lý vận tải còn chưa tương xứng với yêu cầu hiện đại hóa ngành.

Tập trung phát triển xe điện, xe sử dụng nguyên liệu sạch

Trong giai đoạn tới, để hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030, Cục Đường bộ Việt Nam cho rằng: Chiến lược phát triển phương tiện vận tải cần tập trung vào các giải pháp then chốt như: thúc đẩy phát triển xe điện, xe bus sử dụng nhiên liệu sạch (CNG) thông qua chính sách hỗ trợ đầu tư và tín dụng; xây dựng mạng lưới trạm sạc, trạm nạp nhiên liệu sạch tại đô thị lớn và các đầu mối vận tải; từng bước loại bỏ phương tiện không đạt chuẩn khí thải và khuyến khích nội địa hóa sản xuất xe buýt điện, xe tải điện. Đồng thời, tăng cường số hóa trong quản lý phương tiện, giám sát hành trình và vận hành đội xe bằng công nghệ thông minh.

Mặt khác, lực lượng kinh doanh vận tải cũng cần được tổ chức lại theo hướng chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa và gắn kết với chuỗi giá trị logistics. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, minh bạch, đồng thời có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và hợp tác xã nâng cao năng lực quản trị, đổi mới phương tiện và áp dụng công nghệ.

Đặc biệt, cần khuyến khích hình thành các doanh nghiệp vận tải lớn theo mô hình "đầu tàu", có khả năng dẫn dắt thị trường, liên kết chuỗi cung ứng và hợp tác quốc tế.

Bên cạnh đó, đầu tư vào nguồn nhân lực ngành vận tải cũng là giải pháp then chốt – cần có chương trình đào tạo chuẩn hóa, kết nối giữa cơ sở đào tạo – doanh nghiệp – cơ quan quản lý nhằm xây dựng lực lượng lao động vận tải có tay nghề, đạo đức nghề nghiệp và tư duy dịch vụ hiện đại, từ đó nâng cao chất lượng toàn diện cho ngành vận tải đường bộ.

Phan Trang

Tham khảo thêm
Tham khảo thêm
Tháo gỡ khó khăn cho chủ xe kinh doanh vận tải chưa đổi biển vàngTháo gỡ khó khăn cho chủ xe kinh doanh vận tải chưa đổi biển vàng
Tham khảo thêm
Tham khảo thêm
Rà soát, cập nhật tuyến vận tải khách sau sắp xếp đơn vị hành chínhRà soát, cập nhật tuyến vận tải khách sau sắp xếp đơn vị hành chính
Tham khảo thêm
Phân cấp địa phương cấp giấy phép liên vận, vận tải đường bộ quốc tế từ 1/7Phân cấp địa phương cấp giấy phép liên vận, vận tải đường bộ quốc tế từ 1/7