Thông qua cơ chế gỡ "điểm nghẽn" pháp luật, trao quyền Chính phủ xử lý linh hoạt

Admin
Nghị quyết mới được thông qua cho phép Chính phủ được ban hành văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời tháo gỡ các "điểm nghẽn" trong thời gian chờ sửa đổi luật, nghị quyết của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chiều 24/6, với 397/411 đại biểu Quốc hội tán thành (chiếm 83,05%), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật. Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025 và được thực hiện đến hết ngày 28/2/2027.

Trước khi Quốc hội thông qua, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh đã trình bày tờ trình dự thảo Nghị quyết.

Ông Ninh cho biết, về tiêu chí xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, dự thảo Nghị quyết quy định 3 tiêu chí, gồm: Một là quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật.

Hai là quy định của văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, không hợp lý, không khả thi, gây khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật.

Ba là quy định của văn bản quy phạm pháp luật tạo gánh nặng chi phí tuân thủ; hạn chế việc đổi mới, sáng tạo, phát triển mô hình kinh doanh mới, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế.

Thông qua cơ chế gỡ

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày dự thảo Nghị quyết (Ảnh: Media Quốc hội).

Về nguyên tắc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, ông Ninh cho biết, Điều 3 dự thảo Nghị quyết quy định 5 nguyên tắc khi xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, định hướng cho quá trình sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc, bảo đảm chặt chẽ, tránh tùy tiện trong thực thi.

Đáng chú ý, Bộ trưởng Bộ Tư pháp cho biết, các khó khăn, vướng mắc do quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải được xử lý theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Để đảm bảo tính linh hoạt, kịp thời tháo gỡ những "điểm nghẽn" trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa được sửa đổi, bổ sung, khoản 3 Điều 4 dự thảo Nghị quyết cho phép Chính phủ được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quy định có liên quan tại luật, nghị quyết của Quốc hội do Chính phủ trình, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội tại phiên họp, kỳ họp gần nhất.

"6 tăng cường" trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật

Trường hợp đồng thời phải sửa đổi, bổ sung các luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không do Chính phủ trình thì phải xin ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Đối với các khó khăn, vướng mắc do quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội không do Chính phủ trình và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 4, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết để điều chỉnh, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Bên cạnh đó, đối với các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các khó khăn, vướng mắc do quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác thì cơ quan ban hành văn bản phải sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền.

Thông qua cơ chế gỡ

Đại biểu Quốc hội bấm nút thông qua (Ảnh: Media Quốc hội).

Về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, dự thảo Nghị quyết quy định:

Bước 1: Cơ quan ban hành hoặc cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có trách nhiệm nghiên cứu, rà soát, xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật và phương án sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật để xử lý theo quy định tại Nghị quyết này.

Bước 2: Xử lý khó khăn, vướng mắc theo các phương án được quy định tại Điều 4 của dự thảo Nghị quyết:

Trường hợp Chính phủ ban hành nghị quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của dự thảo Nghị quyết thì cơ quan chủ trì soạn thảo xây dựng hồ sơ dự thảo nghị quyết gửi Bộ Tư pháp để thành lập Hội đồng thẩm định độc lập thẩm định trước khi trình Chính phủ.

Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ dự thảo nghị quyết, Hội đồng thẩm định độc lập có trách nhiệm thẩm định văn bản. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng thẩm định, cơ quan chủ trì soạn thảo chỉnh lý, hoàn thiện hồ sơ dự thảo nghị quyết, trình Chính phủ xem xét, thông qua.

Việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật khác được thực hiện theo thủ tục rút gọn quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trường hợp cần xây dựng, ban hành văn bản trong trường hợp đặc biệt thì báo cáo cơ quan có thẩm quyền quyết định theo quy định tại Điều 52 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.