Tin liên quan
Đề nghị giữ lại quy định quyền chất vấn của đại biểu HĐND đối với Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND
Bước mở đầu cho một “cuộc cách mạng về công tác xây dựng pháp luật“
Từ ngày 9-25/5, Hà Nội lấy ý kiến nhân dân về sửa đổi Hiến pháp năm 2013
Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Phạm Thanh Hà đã công bố Lệnh của Chủ tịch nước công bố Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi), Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 10 của Pháp lệnh Dân số, đã được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV thông qua.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Nguyễn Phương Thủy thông tin, trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đặt ra yêu cầu cấp thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để tạo cơ sở hiến định cho việc thực hiện nhiệm vụ sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp theo hướng gần dân, sát dân, phục vụ Nhân dân tốt hơn. Đồng thời mở ra cục diện mới, thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.

Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, phản ánh sâu sắc ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, kết hợp giữa ý Đảng, lòng Dân, phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Trong tháng tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp đã có trên 280,2 triệu lượt ý kiến tham gia góp ý. Trong đó tỉ lệ tán thành đạt 99,75%. Sáng 16/6/2025, với 470 đại biểu Quốc hội (ĐBQH) biểu quyết tán thành (chiếm 100% tổng số đại biểu có mặt và 98,33% tổng số ĐBQH), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam. Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày Quốc hội thông qua.
Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội thông qua đã đánh dấu khởi đầu cho cuộc cải cách sâu sắc về thể chế, thể hiện tư duy đổi mới có tính cách mạng trong tổ chức hệ thống chính trị và quản trị quốc gia, là cơ sở hiến định cho việc thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tạo nền tảng để kiến tạo một nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, người dân hạnh phúc.
Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam gồm có 2 điều, trong đó, Điều 1 sửa đổi, bổ sung 5/120 điều của Hiến pháp (gồm Điều 9, Điều 10, khoản 1 Điều 84, Điều 110 và Điều 111); Điều 2 quy định về hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp. Nghị quyết này có hiệu lực từ ngày Quốc hội thông qua (ngày 16/6/2025).
Thiết kế lại toàn diện nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền địa phương 2 cấp
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Trương Hải Long giới thiệu về Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi). Cụ thể, Luật gồm 7 chương, 54 điều; có hiệu lực thi hành từ ngày được thông qua (16/6/2025).
Luật đã thể hiện tư duy đổi mới nhằm hướng đến quản trị địa phương hiện đại, kiến tạo phát triển, tháo gỡ những điểm nghẽn, khơi thông nguồn lực, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững của các địa phương nói riêng và cả nước nói chung trong kỷ nguyên mới của đất nước.

Việc Quốc hội thông qua Luật này còn mang ý nghĩa lịch sử, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp lần đầu tiên được tổ chức ở nước ta.
Về phân định đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính, Luật xác lập mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp (cấp tỉnh và cấp xã) thống nhất trong cả nước; đồng thời thiết lập cơ sở pháp lý đầy đủ cho mô hình chính quyền địa phương ở đặc khu; hoàn thiện các quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương bảo đảm tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân tốt hơn, thực hiện triệt để nguyên tắc "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm", phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương; bảo đảm việc thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.
Đặc biệt, Luật đã trao quyền cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong trường hợp cần thiết được trực tiếp chỉ đạo, điều hành việc giải quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc cấp mình và của UBND, Chủ tịch UBND cấp xã, không để việc giải quyết công việc, thủ tục hành chính đối với người dân, doanh nghiệp bị đình trệ, ùn tắc, kém hiệu quả.
Trên cơ sở các nguyên tắc phân định thẩm quyền, đã thiết kế lại toàn diện nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền địa phương 2 cấp (cấp tỉnh và cấp xã), bảo đảm phân định rõ, không trùng lặp, chồng chéo về nhiệm vụ, thẩm quyền của từng cấp chính quyền, phù hợp với mô hình quản trị địa phương hiện đại; đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để các luật chuyên ngành căn cứ vào các quy định của Luật này để quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp tỉnh, cấp xã trong các lĩnh vực chuyên ngành...
Việc chuyển đổi từ mô hình chính quyền địa phương 3 cấp sang 2 cấp là một bước cải cách quan trọng và có tính chất lịch sử. Để bảo đảm sự liên tục, thông suốt và ổn định trong quá trình chuyển đổi này, Luật đã quy định đầy đủ, bao quát và có tính đến các vấn đề có thể phát sinh trong thực tiễn, từ việc tổ chức bộ máy, nhân sự cho đến quy trình xử lý hành chính và cơ chế hoạt động.
Đặc biệt, để kịp thời xử lý những tình huống phát sinh, đột xuất mà chưa có trong quy định của pháp luật, Luật đã thiết lập cơ chế linh hoạt, chủ động theo hướng cho phép Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, HĐND, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét, ban hành văn bản hoặc ủy quyền ban hành văn bản để giải quyết các vấn đề phát sinh khi tổ chức chính quyền địa phương cấp tỉnh và cấp xã theo quy định tại Luật này.
Mỗi cặp vợ chồng, cá nhân quyết định về thời gian sinh con, số con
Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương thông tin một số nội dung trọng tâm của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 10 của Pháp lệnh Dân số, như: "Điều 10. Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản.
1/ Quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cặp vợ chồng, cá nhân trên cơ sở bình đẳng.
2/ Bảo vệ sức khỏe, thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS và thực hiện các biện pháp khác liên quan đến chăm sóc sức khỏe sinh sản".

Việc sửa đổi này nhằm khắc phục tình trạng chênh lệch mức sinh giữa các vùng, đối tượng, tránh để mức sinh giảm quá thấp, không đạt mức sinh thay thế, có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững về KT-XH, an ninh và quốc phòng trong tương lai. Việc sửa đổi quy định về số con là một trong những nội dung nhằm duy trì mức sinh thay thế, tránh mức sinh tiếp tục giảm thấp trong thời gian tới.
Việc ban hành kịp thời Pháp lệnh khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội trong công tác dân số, nhằm mục tiêu duy trì vững chắc mức sinh thay thế, nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.