Khinh hạm Type 23 HMS Iron Duke của Hải quân Hoàng gia Anh đã hộ tống khinh hạm mới của Nga RFS Admiral Golovko và các tàu hỗ trợ đi về phía Tây qua Eo biển Anh/Manche vào ngày 9/11.
RFS Admiral Golovko và tàu chở dầu Vyazma đã rời căn cứ Hạm đội phương Bắc của họ tại Severomorsk vào ngày 1/11 để thực hiện nhiệm vụ mà người Nga cho biết là triển khai toàn cầu. Golovko đã tiến hành các cuộc tập trận ở Biển Barents, Biển Na Uy và Biển Bắc trước khi tiến về phía Tây qua English Channel, tức Kênh đào Anh, Eo biển Anh hoặc Eo biển Manche.
Golovko là khinh hạm thứ 3 thuộc lớp Admiral Gorshkov (Đô đốc Gorshkov) và là chiến hạm mới nhất của Hải quân Nga, được đưa vào hoạt động với sự chứng kiến của Tổng thống Nga Vladimir Putin vào tháng 12 năm ngoái.
Về vũ trang, lớp tàu này được trang bị hệ thống phóng thẳng đứng (VLS) với 16 ô, có thể mang tên lửa hành trình siêu thanh 3M22 Zircon. Hiệu quả chiến đấu của loại vũ khí này rất khó để định lượng. Nga đã phóng một số lượng nhỏ tên lửa vào các mục tiêu ở Ukraine nhưng có thông tin cho rằng một số đã bị đánh chặn trong giai đoạn cuối.
Đáng chú ý, Golovko là tàu đầu tiên trong lớp này được trang bị nhà máy điện hoàn toàn do nội địa sản xuất, đánh dấu sự thay đổi từ việc phụ thuộc vào các thành phần nhập khẩu từ Ukraine được sử dụng trên các tàu trước đó.
Sự thay đổi này phù hợp với những nỗ lực rộng lớn hơn của Nga nhằm giảm sự phụ thuộc vào các thành phần nước ngoài trong hạm đội hải quân của mình. Đô đốc Golovko được đặt theo tên của Arseny Golovko, một đô đốc Liên Xô nổi tiếng và được đóng tại xưởng đóng tàu Severnaya Verf ở Saint Petersburg.
Lớp Đô đốc Gorshkov, trong đó có Đô đốc Golovko, được phát triển như một phiên bản kế thừa của khinh hạm lớp Neustrashimy và Krivak từ thời Liên Xô. Những khinh hạm mới này được thiết kế như những tàu đa năng, đa nhiệm, có khả năng thực hiện các cuộc tấn công tầm xa, thực hiện tác chiến chống tàu ngầm và thực hiện các nhiệm vụ hộ tống.
Tính linh hoạt này phân biệt lớp Admiral Gorshkov với các lớp tàu trước, cho phép nó thực hiện nhiều loại hoạt động khác nhau và thích ứng với các yêu cầu của tác chiến hải quân hiện đại.
Việc giám sát tàu chiến Nga là nhiệm vụ thường xuyên của Hải quân Hoàng gia Anh đã được thực hiện kể từ khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu vào những năm 1950 và không phải là lý do để báo động. Tàu chiến Nga có quyền đi qua Kênh đào Anh và những lần quá hải như vậy thường không được coi là dấu hiệu của mối đe dọa gia tăng đối với Vương quốc Anh.
Hoạt động đi lại của các tàu chiến Nga thường được biết trước và đôi khi những người đam mê OSINT nghiệp dư có thể theo dõi tiến trình của các tàu bằng cách sử dụng tín hiệu AIS từ các tàu hỗ trợ.
NATO có thể sử dụng một mạng lưới tình báo lớn để cảnh báo trước và các đơn vị hải quân liên quan được điều phối bởi Bộ tư lệnh Hàng hải Đồng minh (MARCOM) có trụ sở tại Northwood (Bắc London). Thông thường, Hải quân Pháp hoặc Hà Lan sẽ bàn giao cho Hải quân Hoàng gia Anh khi người Nga rời khỏi khu vực quan tâm của họ.
Sau khi tham gia giám sát tàu chiến Nga, tàu NATO sẽ duy trì khoảng cách an toàn nhưng thỉnh thoảng có thể di chuyển vòng quanh tàu cần giám sát và ghi lại các bức xạ điện tử và thu thập hình ảnh bằng camera quang điện mạnh.
Tình báo điện tử (ELINT) và tín hiệu (SIGINT) thu thập được trong quá trình tàu di chuyển theo thường lệ không có khả năng tiết lộ nhiều điều chưa biết. Tuy nhiên, việc thiết lập mô hình hành vi hoạt động thường xuyên giúp xây dựng bức tranh và sẽ giúp nhanh chóng phát hiện bất kỳ sự sai lệch nào so với chuẩn mực.
Liên lạc vô tuyến với các thủy thủ Nga thường được mô tả là ngoại giao, thân thiện và chuyên nghiệp.
Minh Đức (Theo UK Defence Journal, Navy Lookout)