Mức sinh thấp: Thách thức dài hạn cho phát triển bền vững

Admin
(PNTĐ) - Mức sinh tại Việt Nam đang giảm xuống mức thấp nhất trong lịch sử, nhiều địa phương rơi dưới ngưỡng sinh thay thế. Cùng với tốc độ già hóa nhanh và mất cân bằng giới tính khi sinh, thực trạng này đang đặt ra thách thức lớn cho tương lai dân số, nguồn nhân lực và tăng trưởng bền vững của đất nước.

Tín hiệu báo động từ các con số

Theo thông tin từ Cục Dân số (Bộ Y tế), Việt Nam hiện ghi nhận mức sinh trung bình chỉ còn 1,91 con/phụ nữ, thấp hơn ngưỡng sinh thay thế là 2,1 con/phụ nữ. Sau sáp nhập địa giới hành chính, trong 34 tỉnh, thành phố, có 8 địa phương có mức sinh thấp. Đặc biệt, TP Hồ Chí Minh sáp nhập từ TP Hồ Chí Minh, Bình Dương và Vũng Tàu vẫn là địa phương có mức sinh thấp nhất nước với 1,43 con/phụ nữ. Tây Ninh (nhập từ Long An và Tây Ninh) có mức sinh 1,52 con/phụ nữ; Cần Thơ (nhập từ Sóc Trăng, Hậu Giang và Cần Thơ) có mức sinh 1,55 con/phụ nữ. Địa phương duy nhất ở khu vực phía Bắc có mức sinh thấp dưới 2 con là Hà Nội (1,86 con/phụ nữ), tiếp tục giảm 0,02 con/phụ nữ so với năm 2023. Đây là mức sinh thấp nhất tại Thủ đô trong lịch sử.

Trong khi đó, một số tỉnh miền núi như Điện Biên, Tuyên Quang (nhập từ Hà Giang và Tuyên Quang), Lào Cai (nhập từ Yên Bái và Lào Cai), Hà Giang… vẫn duy trì mức sinh cao hơn 2,5 con/phụ nữ. Sự phân hóa rõ rệt giữa vùng đô thị và vùng nông thôn - miền núi cho thấy bài toán dân số của Việt Nam đang trở nên phức tạp hơn bao giờ hết.

Tại lễ công bố Báo cáo Tình trạng Dân số thế giới năm 2025, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan nhận định: Việt Nam đang phải đối mặt với thách thức kép - mức sinh giảm sâu và già hóa dân số nhanh. Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến sự phát triển bền vững của đất nước. Bà Lan cho biết, sau hơn ba thập kỷ kể từ Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD – 1994), Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang đối mặt với những khó khăn, thách thức như: Mức sinh giảm sâu và già hóa dân số nhanh; là một trong những nước có tốc độ già hoá nhanh do mức sinh thấp;

Mức sinh thấp: Thách thức dài hạn cho phát triển bền vững - ảnh 1
Mức sinh giảm đang đặt ra thách thức cho tương lai dân số.

Không chỉ Việt Nam, nỗi lo giảm sinh còn bao trùm nhiều quốc gia châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore. Ông Matt Jackson, Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tại Việt Nam, cho biết: Ở các nước có tỷ lệ sinh thấp, 1/5 người trưởng thành nói rằng họ không thể có được số con như mong muốn, trong khi 40% người trên 50 tuổi cho rằng họ chưa đạt được quy mô gia đình lý tưởng. Các rào cản chính vẫn là chi phí nuôi con, công việc bấp bênh và áp lực cuộc sống hiện đại. Khảo sát này được UNFPA tiến hành trên 14.000 người tại 14 quốc gia, cho thấy hơn một nửa số người được khảo sát cho rằng các yếu tố kinh tế là rào cản chính đối với việc làm cha mẹ. Những nghiên cứu này, theo ông Jackson, hoàn toàn phản ánh thực trạng tại Việt Nam: Người dân, đặc biệt là giới trẻ đô thị, đang trì hoãn hoặc từ chối sinh con vì nỗi lo tài chính và sự thiếu hỗ trợ xã hội.

Theo dự báo của Liên Hợp Quốc, nếu mức sinh tiếp tục duy trì dưới ngưỡng thay thế, đến năm 2036, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn dân số già và trở thành quốc gia có dân số “siêu già” vào năm 2050. Già hóa dân số kéo theo hàng loạt hệ lụy: Thiếu hụt lao động trẻ, gánh nặng an sinh xã hội, và áp lực chi phí y tế. Người cao tuổi thường mắc nhiều bệnh mạn tính như tim mạch, tiểu đường, sa sút trí tuệ… đòi hỏi hệ thống chăm sóc y tế và bảo hiểm phải được thiết kế lại để đáp ứng nhu cầu mới.

Các chuyên gia cho rằng nguyên nhân của mức sinh thấp bắt nguồn từ sự thay đổi mạnh mẽ của cấu trúc xã hội, kinh tế và văn hóa gia đình. PGS.TS Hoàng Thị Nga, Đại học Công đoàn nhấn mạnh: Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng suy giảm mức sinh hiện nay là sự tác động đồng thời của nhiều yếu tố kinh tế - xã hội, đặc biệt rõ nét trong nhóm công nhân và người lao động. Trước hết, chi phí nuôi dưỡng và giáo dục con cái ngày càng gia tăng, từ việc chăm sóc y tế, học hành đến nhu cầu vui chơi, phát triển kỹ năng, đã trở thành gánh nặng tài chính lớn đối với nhiều gia đình trẻ.

Bên cạnh đó, áp lực công việc trong môi trường đô thị hiện đại với cường độ lao động cao, giờ giấc ít linh hoạt khiến nhiều cặp vợ chồng trì hoãn hoặc ngại có thêm con vì lo thiếu thời gian chăm sóc và cân bằng cuộc sống gia đình. Ngoài ra, nhiều lao động phải rời quê hương để làm việc tại các khu công nghiệp hoặc thành phố lớn - dẫn đến sự phân ly về không gian gia đình, vợ chồng ít có cơ hội đoàn tụ, nuôi dưỡng tình cảm bền chặt, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định sinh con. Bên cạnh đó, trong bối cảnh chuyển đổi số, người lao động được tiếp cận với nhiều cơ hội việc làm mới, linh hoạt hơn nhưng cũng đồng thời đối diện với những thách thức về năng lực cạnh tranh, yêu cầu thích ứng nhanh và nguy cơ bất ổn nghề nghiệp. Điều này tạo ra tâm lý bất an, khiến họ thận trọng hơn trong việc lập kế hoạch sinh con hay mở rộng quy mô gia đình.

Mức sinh thấp: Thách thức dài hạn cho phát triển bền vững - ảnh 2

Ảnh minh họa

Từ khuyến khích đến hỗ trợ thực chất

Nhằm ứng phó với xu hướng giảm sinh, sau khi sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 149-KL/TW ngày 10/4/2025 về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW, trong đó nhấn mạnh: rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về số con được sinh và các chính sách để thực hiện tốt các mục tiêu của Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới.

Thực hiện Kết luận số 149-KL/TW, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 10 của Pháp lệnh Dân số có hiệu lực từ ngày 3/6/2025, trong đó có sửa đổi quan trọng về quyền tự quyết về sinh sản của cá nhân và cặp vợ chồng được tôn trọng, phù hợp với sức khỏe, điều kiện và hoàn toàn tự nguyện.

Đặc biệt hiện nay, Bộ Y tế đang tích cực tập trung xây dựng Luật Dân số và Chương trình mục tiêu chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 với mục tiêu bảo đảm an sinh, sức khỏe, bình đẳng cho mọi người dân với nguyên tắc lấy con người là trung tâm, là mục tiêu của sự phát triển bền vững của đất nước.

Bộ Y tế đề xuất trong dự thảo Luật Dân số trình Chính phủ để trình Quốc hội có ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2025) có một số nội dung ưu tiên về sinh sản như: Ưu đãi về chế độ nghỉ thai sản; hỗ trợ bằng tiền mặt hoặc hiện vật khi sinh con; hỗ trợ cho phụ nữ mang thai, sinh con khi sàng lọc trước sinh và sơ sinh; ưu tiên tiếp cận chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội và các hỗ trợ khác phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng thời kỳ.

Ngoài chính sách vĩ mô, nhiều chuyên gia khuyến nghị đẩy mạnh chính sách lao động thân thiện với gia đình: kéo dài thời gian nghỉ thai sản, linh hoạt giờ làm, mở nhà trẻ tại khu công nghiệp, giảm áp lực cho lao động nữ.

Đại úy, ThS Trình Quốc Hưng (Học viện An ninh nhân dân) cho rằng, cần cụ thể hóa Quyết định 588/QĐ-TTg về điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030 bằng các chính sách thực tế, có cơ sở khoa học và gắn với từng địa phương. Cụ thể, ở vùng đã đạt mức sinh thay thế hoặc có xu hướng giảm thấp, nên bãi bỏ các chính sách “sinh ít”, thay vào đó là khuyến khích sinh đủ hai con. Bên cạnh đó, cần có biện pháp giảm chênh lệch vùng miền. Tại các tỉnh miền núi, nơi tảo hôn và mang thai vị thành niên vẫn ở mức cao, cần tăng cường truyền thông giáo dục, cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình miễn phí và tạo sinh kế thay thế để người dân không phụ thuộc vào số lượng con cái. Đồng thời, cần đẩy mạnh bình đẳng giới và truyền thông thay đổi nhận thức cộng đồng - bởi gốc rễ của mất cân bằng giới tính nằm ở định kiến và quan niệm truyền thống…

Mức sinh thấp không chỉ là câu chuyện của dân số học, mà là vấn đề chiến lược quốc gia liên quan trực tiếp đến năng suất lao động, an sinh xã hội và phát triển bền vững. Nếu không hành động sớm, bài toán “thiếu trẻ - thừa già” sẽ không còn là dự báo, mà sẽ trở thành hiện thực trong vòng một thập kỷ tới.