
Hội thảo khoa học quốc gia về Phát triển Khu kinh tế ven biển Trần Đề - Ảnh: VGP/LS
Kỳ vọng trung tâm logistics hiện đại vùng Tây Nam Bộ
Theo bà Trần Thị Lan Phương, đại diện Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, Khu kinh tế (KKT) ven biển Trần Đề được quy hoạch phát triển cảng nước sâu quy mô lớn, khắc phục điểm nghẽn logistics lâu nay của vùng ĐBSCL. Hiện nay, khoảng 80% hàng xuất khẩu của vùng phải vận chuyển bằng đường bộ lên cụm cảng TPHCM – Cái Mép, khiến chi phí tăng 7–10 USD/tấn.
Quy hoạch tổng thể hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2030 (Quyết định 1579/QĐ-TTg của Thủ tướng) xác định cảng Trần Đề là cảng nước sâu đặc biệt, đóng vai trò cửa ngõ xuất nhập khẩu của vùng ĐBSCL. Cùng với đó, Quy hoạch tỉnh Sóc Trăng cũ (Quyết định 995/QĐ-TTg của Thủ tướng năm 2023) định hướng phát triển Trần Đề thành trung tâm kinh tế biển đa ngành, với quy mô khoảng 40.000 ha, trải dài qua các huyện Trần Đề, Cù lao Dung và thị xã Vĩnh Châu cũ.
KKT ven biển Trần Đề gồm: khu cảng biển nước sâu (5.750 ha), khu công nghiệp – chế biến (10.000 ha), khu logistics hậu cần cảng (4.000 ha) và khu đô thị – dịch vụ (20.000 ha). Dự kiến, cảng Trần Đề sẽ tiếp nhận tàu có tải trọng 100.000 DWT, với công suất thiết kế 80–100 triệu tấn/năm (8–10 triệu TEU) khi hoàn thiện.
Các chuyên gia đánh giá, khi được đầu tư đồng bộ, cảng Trần Đề không chỉ giải tỏa áp lực logistics của khu vực mà còn tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội cho cả vùng Tây Nam Bộ, trở thành trung tâm cảng nước sâu – công nghiệp – đô thị biển xứng tầm quốc gia.
Nhân lực – 'nút thắt cổ chai' của khu kinh tế mới
Cùng với cơ hội đầu tư, KKT Trần Đề cũng đối mặt thách thức lớn về nhân lực, yếu tố quyết định hiệu quả vận hành và sức cạnh tranh dài hạn.
Theo các nghiên cứu dự báo, đến năm 2030, khu kinh tế cần 50.000–60.000 lao động và khi hoàn thiện sẽ cần khoảng 115.000 lao động trực tiếp. Cơ cấu nhân lực dự kiến chuyển mạnh từ lao động xây dựng giai đoạn đầu sang lao động công nghiệp, logistics và dịch vụ, trong đó tỷ lệ lao động kỹ thuật cao tăng từ khoảng 5% (2025) lên 15–20% (sau 2040).
PGS.TS Nguyễn Xuân Trung (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) nhận định: "Phát triển nhân lực chất lượng cao cho KKT Trần Đề không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu tại chỗ, mà còn phục vụ chiến lược liên kết vùng – kết nối Cần Thơ (trung tâm đào tạo) với Trần Đề (trung tâm sản xuất và ứng dụng), hình thành chuỗi giá trị nhân lực biển bền vững".
Ông nhấn mạnh, đầu tư vào nhân lực không chỉ là giải pháp ngắn hạn mà là nền tảng chiến lược để phát triển kinh tế biển Việt Nam, góp phần giảm chênh lệch lao động nông thôn – đô thị, nâng cao thu nhập và thúc đẩy chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh, số hóa và bền vững.
Tuy nhiên, thực trạng nguồn nhân lực hiện nay vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Mặc dù tỷ lệ lao động qua đào tạo ở đây đã cải thiện, nhưng lao động có bằng cấp chuyên môn kỹ thuật vẫn thấp, chưa đủ cung ứng cho lĩnh vực công nghiệp – logistics biển. Nhiều doanh nghiệp trong khu vực phải tuyển lao động từ TPHCM, Cà Mau hoặc Cần Thơ (cũ), gây thiếu hụt nhân lực tại chỗ.
Mối liên kết giữa nhà trường – doanh nghiệp – chính quyền chưa chặt chẽ. Các chương trình đào tạo nghề và thực tập gắn với nhu cầu thực tế của KKT Trần Đề chưa được triển khai đồng bộ. Một số thỏa thuận hợp tác giữa tỉnh Sóc Trăng cũ và Đại học Cần Thơ, Đại học Kinh tế TPHCM mới dừng ở mức khởi động, chưa đủ mạnh để hình thành chuỗi cung ứng nhân lực chuyên biệt cho kinh tế biển.
Chuẩn bị nhân lực đón đầu, nền tảng cho kinh tế biển bền vững
Các chuyên gia cho rằng, để KKT Trần Đề phát huy tối đa hiệu quả, chuẩn bị nhân lực phải đi trước hạ tầng ít nhất 5–10 năm. Điều này đòi hỏi chính sách đào tạo linh hoạt, cơ chế thu hút nhân tài cạnh tranh và đầu tư đồng bộ vào giáo dục nghề nghiệp.
PGS.TS Nguyễn Phước Hiệp (Trường Đại học Trà Vinh) cho biết, mục tiêu đưa Trần Đề trở thành trung tâm dịch vụ hậu cần biển, cảng cửa ngõ và đầu mối năng lượng tái tạo chỉ khả thi khi có mô hình hợp tác ba nhà (Nhà nước – Doanh nghiệp – Nhà trường). Ông đề xuất xây dựng Mô hình Đổi mới Đào tạo Biển Trần Đề (TDMIT-P) với sáu cấu phần, trong đó trọng tâm là gắn đào tạo với nhu cầu thị trường và chuyển giao công nghệ.
Tuy nhiên, ông Hiệp cũng thẳng thắn chỉ ra, nghiên cứu hiện vẫn gặp hạn chế về phạm vi khảo sát và dữ liệu định lượng dài hạn, khiến việc đo lường tác động xã hội – kinh tế còn sơ bộ. Dù vậy, các kết quả bước đầu vẫn là cơ sở khoa học quan trọng để hoạch định chính sách nhân lực cho Trần Đề và các khu kinh tế ven biển khác trong vùng.
Trước đây, Hội đồng nhân dân tỉnh Sóc Trăng cũ đã ban hành Nghị quyết 14/2022/NQ-HĐND về hỗ trợ đào tạo sau đại học và thu hút nhân lực trình độ cao. Tuy nhiên, phạm vi áp dụng còn hẹp, chủ yếu tập trung trong khu vực công, chưa tạo sức hút với chuyên gia, kỹ sư từ các trung tâm công nghiệp lớn. Ngoài ra, hạ tầng đô thị, nhà ở, y tế, giáo dục và môi trường sống tại khu vực vẫn chưa đồng bộ, gây khó khăn trong việc giữ chân nhân tài.
Bài học từ các cụm cảng Cái Mép – Thị Vải, Nghi Sơn, Long An cho thấy: nếu không chuẩn bị sẵn nguồn nhân lực, các dự án cảng biển lớn khó đạt hiệu suất vận hành, thậm chí đánh mất cơ hội vào tay đối thủ. Ngược lại, khi nhân lực được đào tạo tốt, cảng Trần Đề có thể trở thành động lực tăng trưởng mới cho vùng Tây Nam Bộ, góp phần hiện thực hóa mục tiêu của Nghị quyết 13-NQ/TW về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long.
Đại diện xã Trần Đề (TP. Cần Thơ) cho biết, địa phương hiện có hơn 55.000 dân, trong đó khoảng 30% lao động đã di cư đi nơi khác làm việc và trình độ nhân lực tại chỗ vẫn thấp., dù địa phương đã ký kết hợp tác đào tạo với các trường đại học, nhưng để đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của khu kinh tế vẫn là thách thức lớn.
Hướng tới trung tâm kinh tế biển hiện đại của vùng ĐBSCL
KKT ven biển Trần Đề được kỳ vọng là cực tăng trưởng mới của vùng Tây Nam Bộ, nhưng để vận hành hiệu quả, nguồn nhân lực chất lượng cao phải được xem là ưu tiên chiến lược.
Các chuyên gia thống nhất, cần xây dựng chiến lược nhân lực mang tính hệ thống, gắn kết giữa đào tạo, sử dụng, thu hút, đồng thời tích hợp vào quy hoạch tổng thể của vùng. Khi đó, Trần Đề sẽ không chỉ là cảng biển nước sâu hiện đại, mà còn là biểu tượng của chuyển đổi xanh và phát triển bền vững của ĐBSCL.
Lê Sơn