Chăm sóc sức khỏe sinh sản cho công nhân tại các khu công nghiệp còn bất cập

Admin
Theo báo cáo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, cả nước có hơn 3,7 triệu công nhân lao động đang làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất.

Hạn chế trong chăm sóc sức khỏe sinh sản cho công nhân lao động

Sáng 19/12, tại Hà Nội, Bộ Y tế tổ chức Hội thảo phổ biến, triển khai Đề án "Tư vấn và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất giai đoạn 2024-2030.

Ths.BS. Đinh Anh Tuấn - Phó Vụ trưởng Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, cho biết đề án "Tư vấn và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất giai đoạn 2024-2030" đã được Bộ Y tế chính thức phê duyệt tại Quyết định số 2899 ngày 30/9/2024.

Chăm sóc sức khỏe sinh sản cho công nhân tại các khu công nghiệp còn bất cập- Ảnh 1.

Ths.BS. Đinh Anh Tuấn - Phó Vụ trưởng Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em phát biểu tại Hội thảo.

Theo đó, đề án hướng tới mục tiêu "Nâng cao sức khỏe, giảm tình trạng mắc các bệnh về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục của công nhân lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất góp phần tăng năng suất lao động cho doanh nghiệp".

Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong những năm qua, các khu công nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập và phát triển ở hầu hết các địa phương. 

Công nhân lao động tại các khu công nghiệp và khu chế xuất có vai trò quan trọng trong đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 

Từng bước nâng cao năng suất lao động, chất lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm; đóng góp to lớn trong nâng cao tiềm lực kinh tế đất nước.

Theo báo cáo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, cả nước có hơn 3,7 triệu công nhân lao động đang làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, trong đó số lao động nữ chiếm khoảng 60% và chủ yếu ở độ tuổi 25-40. Số lao động này phần lớn đã di chuyển đến sinh sống và làm việc tại các khu vực trên.

Với nhóm đối tượng đặc thù là công nhân lao động trẻ, trong độ tuổi sinh sản di cư đến làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, nhu cầu về thông tin và dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản là rất lớn và cũng đòi hỏi cách tiếp cận đặc thù trong cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của họ.

Dân số Việt Nam chịu ảnh hưởng vì mức sinh ngày càng xuống thấp

Sau hơn 10 năm thực hiện chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020 của Thủ tướng Chính phủ, tình hình sức khỏe sinh sản của người dân đã có những chuyển biến tích cực. 

Theo đó, các chỉ số cơ bản về sức khỏe sinh sản như tỉ số tử vong mẹ, tỉ lệ chăm sóc trước, trong và sau sinh, tỉ lệ các cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại đã được cải thiện đáng kể, mạng lưới cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản đã phát triển rộng rãi ở tất cả các cấp. 

Người dân có thể tiếp cận và nhận được các dịch vụ cơ bản về chăm sóc sức khỏe sinh sản từ thông tin, giáo dục, truyền thông đến dịch vụ kỹ thuật lâm sàng.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản cho một bộ phận không nhỏ là lao động trẻ đến sinh sống và làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất còn nhiều bất cập và hạn chế.

Cụ thể, hệ thống y tế tại địa phương chưa đáp ứng được với sự gia tăng về số lượng công nhân lao động tại các các khu công nghiệp, khu chế xuất. 

Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản chủ yếu tập trung vào các hoạt động như tình dục an toàn, làm mẹ an toàn, kế hoạch hóa gia đình, chưa đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu khác của công nhân lao động như: Sàng lọc, phát hiện sớm các bệnh nhiễm khuẩn, ung thư sinh sản; dinh dưỡng bà mẹ - trẻ em; dự phòng, phát hiện và điều trị vô sinh, hiếm muộn; tư vấn và chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục cho thanh niên.

Mạng lưới cơ sở dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản sẵn có tại địa phương chưa phù hợp với thời gian sinh hoạt và làm việc của công nhân lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất như địa điểm cung cấp dịch vụ xa khu công nghiệp, khu chế xuất...

Tăng cường hiệu quả và tránh trùng lắp

Đề án "Tư vấn và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất giai đoạn 2024-2030" được ban hành nhằm khắc phục những hạn chế kể trên.

Nội dung hoạt động của Đề án sẽ tập trung vào các giải pháp tăng cường truyền thông, vận động chính sách; Nâng cao năng lực cho cán bộ y tế làm công tác truyền thông, tư vấn và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho công nhân lao động. 

Chăm sóc sức khỏe sinh sản cho công nhân tại các khu công nghiệp còn bất cập- Ảnh 2.

Quang cảnh Hội thảo.

Truyền thông, tư vấn và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản phù hợp với điều kiện sinh hoạt và thời gian làm việc của công nhân lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất; xây dựng mô hình điểm và nhân rộng.

Bộ Y tế giao Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em là đơn vị đầu mối phối hợp với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, các ban, ngành, đoàn thể, hội nghề nghiệp có liên quan xây dựng các chương trình can thiệp, các mô hình điểm về tư vấn và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho công nhân lao động. 

Cùng với đó, điều phối hoạt động giữa các ngành, các đơn vị, chương trình, dự án, các tổ chức trong và ngoài nước tham gia vào công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản cho công nhân lao động nhằm tăng cường hiệu quả và tránh trùng lắp.

Tại địa phương, Sở Y tế giao Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, thành phố (hoặc đơn vị tương đương) làm đầu mối điều phối hoạt động giữa các bên liên quan để tổ chức thực hiện các hoạt động vận động nguồn lực, xây dựng chính sách và tổ chức thực hiện các hoạt động truyền thông kết hợp cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho công nhân lao động trên địa bàn tỉnh, thành phố, đảm bảo hiệu quả và tránh trùng lắp.

Phối hợp với Liên đoàn Lao động các cấp, Ban Quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất  tuyên truyền vận động, hướng dẫn đại diện người sử dụng lao động và đại diện tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp xây dựng các chính sách về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho công nhân lao động trong thỏa ước lao động tập thể.