Chuyện về hai cô gái kéo cờ trong ngày 2/9/1945

Admin
(PNTĐ) - 80 năm đã trôi qua, bà Lê Thi và bà Đàm Thi Loan - người kéo cờ tại buổi lễ “Tuyên ngôn Độc lập” 2/9/1945 diễn ra ở Quảng trường Ba Đình năm xưa đã về với cát bụi, nhưng câu chuyện về họ luôn được nhắc đến trong gia đình mỗi dịp kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng Tám lịch sử. Với con cháu họ, đây là niềm tự hào không chỉ với gia đình mà còn là dấu mốc đáng nhớ của lịch sử dân tộc.
Chuyện về hai cô gái kéo cờ trong ngày 2/9/1945 - ảnh 1
Bà Đàm Thị Loan và bà Lê Thi gặp lại nhau tại Quảng trường Ba Đình. Ảnh Tư liệu

2 cô gái kéo cờ được phân nhiệm vụ ngẫu nhiên
GS Lê Thi tên thật là Dương Thị Thoa, sinh ngày 3/6/1926, quê ở xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, Hưng Yên nhưng bà sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, trong một gia đình trí thức có 8 anh chị em, ở 98 Hàng Bông. Năm 17 tuổi, vừa tốt nghiệp Trường nữ sinh Đồng Khánh (nay là Trường THCS Trưng Vương, Hà Nội), Dương Thị Thoa đã tham gia hoạt động cách mạng trong Hội Phụ nữ Cứu quốc. Sau này bà lấy bí danh Lê Thi.

Ngày 2/9/1945, thiếu nữ Hà thành Lê Thi cùng cô Đàm Thị Loan, một phụ nữ dân tộc Tày đã vinh dự được chọn làm người kéo cờ trong Lễ Tuyên ngôn Độc lập. 80 năm sau, trước thềm kỷ niệm ngày Quốc khánh của đất nước, tại căn nhà anh Lê Minh Quốc con trai GS Lê Thi nằm trên phố Ngô Quyền, Hà Nội vẫn đầy ắp những kỷ vật của mẹ với một thời tuổi trẻ cùng đồng đội luôn được anh và con cháu lưu giữ trân trọng.

Ngày tuyên bố Độc lập 2/9/1945 là một sự kiện lớn. Mặc dù, chiều mới đến giờ tập trung, nhưng từ sáng, bà đã cùng mọi người có mặt tại phố Hàng Bông. Sau đó, đi bộ qua Cửa Nam xuống đường Điện Biên Phủ để tiến vào Quảng trường Ba Đình. Bà cùng mọi người được phân công vận động quần chúng các khu phố đi rất đông, các cửa hiệu đóng cửa rất nhiều. Các đoàn người rầm rập kéo về quảng trường Ba Đình. 

Tại buổi lễ Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 diễn ra ở Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), đoàn phụ nữ quận Hoàn Kiếm được đứng hàng đầu, vì đoàn của bà đến sớm hơn, tay bà cầm gậy để giữ trật tự, chân đi giày ba ta trắng, mặc áo dài quần trắng, vừa đi vừa hô khẩu hiệu để chị em hô theo: Ủng hộ Việt Minh! Việt Minh độc lập muôn năm!, lúc thì hát “Diệt phát xít”, lúc hát “Du kích ca”. 

Bỗng nhiên 1 đại diện Ban Tổ chức cuộc mít tinh đến chỗ đoàn phụ nữ của bà yêu cầu cử 1 người lên kéo cờ. Chị em đồng thanh bảo "Thi lên đi", bà ngập ngừng, lo sợ e ngại vì việc xảy ra qua bất ngờ. Bà không hề được chuẩn bị tư tưởng trước, không được phân công trước. Đây là một việc ngẫu nhiên, có lẽ vì bà đứng ở hàng đầu, lại ở ngoài hàng dáng "oai vệ”, vác gậy gỗ, giữ trật tự cho đội ngũ chị em. Đó cũng là may mắn đến với bà - một người con gái bình thường để nay trở thành một nhân chứng lịch sử cho sự kiện trọng đại nhất của dân tộc Việt Nam.

Ngày 2/9/1945 người con gái thứ 2 cùng kéo cờ với bà Lê Thi là một chị nữ du kích người Tày, cũng là một ngẫu nhiên thú vị. Cô nữ du kích người Tày áo chàm, quần bó cạp và cô nữ sinh Hà Nội áo dài quần trắng, đại diện cho phụ nữ Kinh và miền núi. Hai người không quen nhau, không biết tên nhau, cùng lên kéo cờ, hồi hộp lo lắng. Cô nữ du kích dân tộc Tày, người thấp hơn cầm dây kéo cờ, cô nữ sinh Lê Thi cao hơn, hai tay nâng lá cờ, sau đó hai người cùng chung tay kéo cờ lên... Đến lúc lá cờ tới đỉnh cao, tung bay lồng lộng trong cơn gió thu và nắng chói tháng Tám,  lúc đó nước mắt bà bỗng ứa ra vì xúc động, xen lẫn niềm tự hào. Trên lễ đài, cả hai được nhìn thấy Bác Hồ rõ hơn trong bộ kaki giản dị. 

Chứng kiến lá cờ tung bay, 2 người phụ nữ thở phào nhẹ nhõm, vui sướng, ôm nhau không nói gì và chia tay nhau, mỗi người một ngả, là do không biết cả tên của nhau. Mãi đến năm 1989, khi hồi ký của bà Lê Thi được đăng trên báo kể về một “cô du kích người Tày”, còn hồi ký của “cô du kích người Tày” lại nói về một cô thiếu nữ Hà Nội. Sau 44 năm xa cách, họ được gặp nhau tại buổi họp của Trung đoàn Thủ đô ở Viện bảo tàng quân đội. Lúc này họ mới biết tên họ của nhau, một người là Lê Thi (Dương Thị Thoa) còn người kia là Đàm Thị Loan.

Bà Đàm Thị Loan sinh năm 1926, ở huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Học hết bậc tiểu học, tham gia Hội Việt Minh, gia nhập Đội tuyên truyền “Nước Nam mới”. Bà đẹp người, đẹp nết, nói giỏi, hát hay. Cô gái người Tày này là một trong số 34 đội viên Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân trong lễ tuyên thệ (22/12/1944). Sau ngày Độc lập, bà Loan được giao giữ chức trung đội trưởng Đội tự vệ thành Hoàng Diệu, sau này chiến tranh xảy ra lại trở về chiến khu Việt Bắc. Hòa bình lập lại, bà chuyển sang làm nhiệm vụ cơ yếu (Bộ Tổng tham mưu). Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, bà lại có mặt ở Tây Ninh. Bà Đàm Thị Loan qua đời vào ngày 28/1/2010, hưởng thọ 84 tuổi.
Tự hào về quá khứ, về lịch sử gia đình 
“Sau ngày độc lập, mẹ Lê Thi hăng hái tham gia các phong trào cách mạng, bà được bầu làm Bí thư Hội Phụ nữ cứu quốc khu Hoàn Kiếm, làm Phó Bí thư Hội Phụ nữ cứu quốc tỉnh Vĩnh Phúc… Năm 1947, bà Thi được cấp trên giao nhiệm vụ làm Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc bây giờ). Năm 1949 bà được giao làm Chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh Tuyên Quang. Năm 1957, khi hoà bình lập lại, bà được cử đi học lớp lý luận cao cấp đầu tiên của Trường Nguyễn Ái Quốc. Tốt nghiệp loại ưu, bà được giữ lại làm giảng viên, rồi đảm nhiệm nhiều cương vị công tác khác nhau. Sau đó, bà Lê Thi được cấp trên điều về công tác tại Hà Nội rồi tham gia nghiên cứu, giảng dạy và giữ chức Viện trưởng Viện Triết học Việt Nam, rồi Viện trưởng Viện Gia đình và giới, bà nghỉ hưu tháng 12/1999”- anh Quốc chia sẻ.

Lật lại từng trang lịch sử của người mẹ quá cố được anh và GS Lê Thi khi còn sống ghi chép cẩn thận, anh Quốc kể: Là Hội trưởng Hội Phụ nữ Cứu quốc khu Hoàn Kiếm, bà Lê Thi đồng thời tham gia hoạt động của Đoàn Thanh niên, Đội tự vệ chiến đấu, Đội Tuyên truyền xung phong và làm nhiều việc. Trước hết phải nói đến tuần lễ vàng được phát động trong toàn quốc vào tháng 9/1945. Thủ đô là trung tâm, Liên khu 1 (Hoàn Kiếm) tập trung các nhà buôn bán giàu có cũng là đối tượng vận động số 1: Kêu gọi mọi người đóng góp tiền bạc cho Quỹ cứu quốc, kiến quốc. Bà Lê Thi và chị em đi làm nhiệm vụ vận động từng gia đình ở các phố lớn: Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Trống, Cửa Nam... góp tiền vàng. Việc đầu tiên tự bà có đôi xuyến vàng đeo tay, chẳng hỏi bố mẹ, bà đi nộp vào quỹ cứu quốc ngay. 

Tại Hà Nội  khi đó người dân nghèo, người lao động mù chữ còn nhiều. Thực hiện chủ trương xóa nạn mù chữ của Chính phủ ta, Nha Bình dân học vụ đứng ra vận động tổ chức nhiều lớp học xóa mù chữ ở các khu phố vào buổi tối. Bà Lê Thi cùng anh em khu phố Hàng Bông, Hàng Gai đã tham gia tổ chức và dạy học 1 lớp xóa mù buổi tối từ 7 giờ đến 9h30 tại địa điểm ở đầu phố Hàng Bông. Bà còn cùng một số chị em tham gia lớp huấn luyện thanh niên do Bộ Thanh niên mở tại địa điểm Bộ Lâm nghiệp hiện nay…

“Con cháu trong gia đình luôn tự hào khi câu chuyện về mẹ luôn được nhắc đến mỗi khi tôi gặp một người bạn mới, một đồng nghiệp mới. Mọi người có thể không biết mình nhưng đều nhớ tới và được liên kết với nhau qua câu chuyện lịch sử mà mẹ mình là một nhân chứng. Trong gia đình, từ ông bà cho đến thế hệ mình luôn giáo dục cho con cháu điều quan trọng nhất là sự yêu thương hòa thuận. Và giữ vững lòng hiếu thuận, sự hòa thuận cũng là cách mỗi thành viên tự hào về quá khứ, về lịch sử gia đình mình” - anh Lê Minh Quốc chia sẻ.