Công nghệ chỉnh gen có thể tạo bứt phá trong ngành nông nghiệp

Admin
(Chinhphu.vn) - Xây dựng hành lang pháp lý cho công nghệ chỉnh sửa gen – lĩnh vực được xem là động lực mới của nông nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên đổi mới sáng tạo đang được nhiều nhà khoa học, doanh nghiệp và các nhà quản lý.
Công nghệ chỉnh gen có thể tạo bứt phá trong ngành nông nghiệp - Ảnh 1.

Toàn cảnh diễn đàn "Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp – Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý" - Ảnh: VGP/Đỗ Hương

Tại Diễn đàn "Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp – Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý" ngày 18/10, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến khẳng định, khoa học và công nghệ đang trở thành động lực then chốt thúc đẩy nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh toàn cầu.

Công nghệ chiến lược cho nông nghiệp hiện đại

Theo Thứ trưởng, tinh thần phát triển khoa học công nghệ đã được khẳng định trong Nghị quyết 19 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị (ban hành ngày 10/7/2024), trong đó coi khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực chủ yếu để hiện đại hóa lực lượng sản xuất.

Hiện nay, khoa học công nghệ đóng góp khoảng 30% giá trị gia tăng toàn ngành nông nghiệp. "Năm 2025, ngành nông nghiệp có thể đạt kỷ lục xuất khẩu 67–70 tỷ USD – minh chứng cho hiệu quả của đổi mới khoa học công nghệ", ông nói.

Trong các lĩnh vực công nghệ, công nghệ sinh học được xem là mũi nhọn với tiềm năng đột phá, giúp chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi thích ứng biến đổi khí hậu, nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm. Tuy nhiên, Thứ trưởng nhấn mạnh, việc hoàn thiện khung pháp lý vẫn là điều kiện tiên quyết để khoa học công nghệ phát huy hiệu quả, đồng thời "tạo môi trường và động lực để các nhà khoa học yên tâm cống hiến, khơi dậy tinh thần sáng tạo".

Ông ví diễn đàn này như một "Khoán 10" mới trong khoa học công nghệ – một cú hích mạnh mẽ để "cởi trói" cho nhà khoa học, thúc đẩy đổi mới tư duy và cơ chế, tạo điều kiện cho nghiên cứu ứng dụng được chuyển hóa thành sản phẩm phục vụ đời sống.

Theo Viện Di truyền Nông nghiệp, công nghệ chỉnh sửa gen cho phép tác động chính xác vào từng vị trí trong bộ gen cây trồng, giúp tạo ra những giống cây có khả năng chịu mặn, kháng bệnh, tăng giá trị dinh dưỡng hoặc kéo dài thời gian bảo quản, mà không cần đưa gen ngoại lai như công nghệ chuyển gen (GMO). Nhờ đó, các sản phẩm chỉnh sửa gen gần như tương đồng với giống lai tự nhiên, đồng thời rút ngắn thời gian chọn tạo chỉ còn 2–5 năm, thay vì 10–15 năm như trước.

Hiện nhiều viện, trường trong nước như Viện Di truyền Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội hay Trung tâm Công nghệ sinh học TP.HCM đã làm chủ công nghệ này, cho ra đời nhiều kết quả nổi bật: lúa chịu mặn, đậu tương giảm đường khó tiêu, cà chua giàu carotenoid, ngô và đu đủ tăng năng suất, chất lượng. Tuy nhiên, do Luật Đa dạng sinh học năm 2008 mới chỉ định nghĩa "sinh vật biến đổi gen", nên các sản phẩm chỉnh sửa gen dù không chứa DNA ngoại lai vẫn bị xếp chung với GMO, gây khó khăn cho thương mại hóa và hội nhập quốc tế.

Các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần tách biệt khái niệm "chỉnh sửa gen" khỏi "biến đổi gen", đồng thời áp dụng cơ chế quản lý dựa trên bản chất sản phẩm chứ không phải công nghệ tạo ra nó. Đây là bước đi cần thiết để xây dựng khung pháp lý linh hoạt, minh bạch, giúp Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực về phát triển và thương mại hóa cây trồng chỉnh sửa gen, góp phần bảo đảm an ninh lương thực, giảm phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Công nghệ chỉnh gen có thể tạo bứt phá trong ngành nông nghiệp - Ảnh 2.

Thứ trưởng Bộ NN&MT Phùng Đức Tiến khẳng định công nghệ sinh học được xem là mũi nhọn với tiềm năng đột phá trong nông nghiệp - Ảnh: VGP/Đỗ Hương

Kinh nghiệm quốc tế và xu hướng quản lý mới

TS. Nguyễn Duy Phương, Trưởng Bộ môn Bệnh học phân tử (Viện Di truyền Nông nghiệp), cho biết công nghệ chỉnh sửa gen đang mở ra hướng đi mới cho chọn giống cây trồng hiện đại. Từ đầu những năm 2000, công nghệ này đã phát triển mạnh mẽ trên thế giới, giúp rút ngắn chu kỳ chọn giống từ 6–15 năm xuống còn 2–5 năm, đồng thời tăng độ chính xác trong chọn lọc tính trạng.

Ông Phương nhấn mạnh sự khác biệt giữa công nghệ chuyển gen (tạo ADN ngoại lai) và công nghệ chỉnh sửa gen (thay đổi ADN nội sinh), trong đó công cụ CRISPR-Cas9 cho phép tạo ra đột biến chính xác mà không để lại dấu vết ADN lạ. Việt Nam đã có nền tảng khoa học và nhân lực vững chắc, nhiều sản phẩm cây trồng mới sẵn sàng đưa vào khảo nghiệm, song vẫn "chưa thể ra thị trường" do thiếu quy chế quản lý riêng.

"Đảng và Chính phủ đã xác định chỉnh sửa gen là công nghệ chiến lược. Điều cần thiết hiện nay là sớm hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho nhà khoa học và doanh nghiệp thương mại hóa kết quả nghiên cứu", ông nói, đồng thời kiến nghị điều chỉnh khái niệm "sinh vật biến đổi gen" trong Luật Đa dạng sinh học để phản ánh đúng bản chất khoa học.

Theo ông, Việt Nam có đầy đủ điều kiện để không bị tụt lại phía sau, nếu biết tận dụng thời cơ, đồng bộ giữa nhận thức xã hội, chính sách và năng lực khoa học. Khi đó, công nghệ chỉnh sửa gen không chỉ là "mũi nhọn" của nông nghiệp hiện đại mà còn là biểu tượng cho sự hài hòa giữa phát triển công nghệ và bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học – nền tảng cho một nền nông nghiệp bền vững và tự cường.

Chia sẻ tại diễn đàn, TS. Nguyễn Văn Long – Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ, Bộ NN&MT cho biết, thế giới hiện áp dụng hai hướng tiếp cận chính trong quản lý sản phẩm chỉnh sửa gen: một là đánh giá rủi ro dựa vào đặc tính sinh học của sản phẩm cuối cùng, không phụ thuộc công nghệ tạo ra nó; hai là quản lý dựa trên quy trình công nghệ.

Một số quốc gia như Australia, Nhật Bản, Mỹ hay Argentina không xem sinh vật chỉnh sửa gen là GMO nếu không có sự chèn DNA từ loài khác hoặc không tạo ra tổ hợp gen mới. Đơn cử, Australia từ năm 2019 đã loại các sinh vật chỉnh sửa theo cơ chế SDN1 (không có DNA ngoại lai) khỏi danh mục GMO.

Tại Việt Nam, Đảng và Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo quan trọng nhằm thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng và quản lý an toàn sinh vật biến đổi gen. Tuy nhiên, hệ thống pháp lý về công nghệ chỉnh sửa gen vẫn chưa hoàn thiện, trong khi công tác truyền thông khoa học còn hạn chế, dẫn tới tâm lý dè dặt trong xã hội và sự liên kết giữa nghiên cứu – doanh nghiệp – sản xuất chưa thật sự hiệu quả.

Theo ông Long, Việt Nam đang xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Đa dạng sinh học năm 2008 để cập nhật khái niệm và quy định liên quan đến công nghệ chỉnh sửa gen, đồng thời xây dựng cơ chế quản lý và thương mại phù hợp với xu thế toàn cầu. "Chúng tôi sẽ hiện đại hóa hệ thống phòng thí nghiệm, phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và bảo hộ sở hữu trí tuệ, qua đó đưa công nghệ sinh học trở thành trụ cột của nông nghiệp hiện đại," ông nhấn mạnh.

Đỗ Hương

Tham khảo thêm
Tham khảo thêm
Phát triển thành công hai giống lúa chỉnh sửa gen đầu tiên trên thế giớiPhát triển thành công hai giống lúa chỉnh sửa gen đầu tiên trên thế giới
Tham khảo thêm
Tiềm năng ứng dụng cây trồng chỉnh sửa gen tại Việt NamTiềm năng ứng dụng cây trồng chỉnh sửa gen tại Việt Nam