Phòng ngừa, kiểm soát và ngăn chặn từ sớm, từ xa các nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường

Admin
(PNTĐ) - Sáng 28/10, tiếp tục Kỳ họp thứ 10, Quốc hội nghe Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”.

Tin liên quan

Cử tri và nhân dân lo lắng về việc giải quyết các dự án, công trình “treo” còn chậm, gây lãng phí nguồn lực

Các đại biểu Quốc hội vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh trước Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Dự kiến Kỳ họp thứ 10 Quốc hội sẽ xem xét, quyết định 43 dự án luật, nghị quyết

Tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 130/2024/QH15 về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2025, trong đó quyết định giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành” và Nghị quyết số 131/2024/QH15 về thành lập Đoàn giám sát chuyên đề này.

Phòng ngừa, kiểm soát và ngăn chặn từ sớm, từ xa các nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường - ảnh 1
Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày

Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT) kể từ khi Luật BVMT năm 2020 có hiệu lực thi hành đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Cụ thể như:

Thứ nhất: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành hơn 500 văn bản hướng dẫn và triển khai thi hành Luật BVMT, trong đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành đã ban hành hơn 30 văn bản, qua đó đã cơ bản thể chế và cụ thể hóa đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu, quán triệt nguyên tắc môi trường là một trong ba trụ cột “Kinh tế - Xã hội - Môi trường” để phát triển bền vững, chuyển mạnh sang cơ chế quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế với sự tham gia của toàn xã hội. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện nghiêm túc, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp. Các chiến lược, quy hoạch quốc gia quan trọng được xây dựng và phê duyệt, bao gồm Chiến lược BVMT quốc gia và lần đầu tiên xây dựng Quy hoạch BVMT quốc gia. Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường tiếp tục được rà soát, cập nhật, tiệm cận với trình độ quốc tế.

Thứ hai: Công tác BVMT đã có nhiều chuyển biến, đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam tăng, đứng tốp đầu trong ASEAN. Có 03/05 chỉ tiêu đã vượt kế hoạch đặt ra cho năm 2025, gồm: tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; tỷ lệ che phủ rừng. Ngân sách nhà nước (NSNN) chi cho sự nghiệp môi trường được bảo đảm không thấp hơn 1% tổng chi NSNN và tăng qua các năm (năm 2024 đạt 1,12%). Nguồn lực xã hội hóa và đầu tư từ doanh nghiệp cho BVMT cũng có những chuyển biến tích cực.

Thứ ba: Các nguồn thải lớn đã được kiểm soát chủ động và chặt chẽ, không để xảy ra sự cố môi trường lớn; đã xuất hiện nhiều mô hình đô thị, nông thôn, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất sinh thái, thân thiện với môi trường. Nhiều dự án lớn được kiểm soát chặt chẽ về BVMT đi vào vận hành chính thức, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Hoạt động đầu tư lắp đặt thiết bị quan trắc nước thải tự động, liên tục truyền số liệu trực tiếp về cơ quan quản lý nhà nước đã được quan tâm, đầu tư. Tỷ lệ khu công nghiệp, cụm công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung tăng so với giai đoạn trước.

Giai đoạn 2022-2024, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thanh tra 812 cơ sở, xử phạt 348 cơ sở với tổng số tiền 96,7 tỷ đồng. Các địa phương đã xử phạt 14.863 vụ với tổng số tiền 643 tỷ đồng. Kiểm toán nhà nước đã thực hiện 12 cuộc kiểm toán, chỉ ra nhiều hạn chế, bất cập trong quản lý môi trường. Bên cạnh đó, lực lượng Cảnh sát môi trường đã tích cực điều tra, phát hiện, khởi tố 2.336 vụ/2.935 bị can.

Phòng ngừa, kiểm soát và ngăn chặn từ sớm, từ xa các nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường - ảnh 2
Quang cảnh kỳ họp

Thứ tư: Công tác quản lý chất thải có nhiều chuyển biến, tỷ lệ thu gom, xử lý CTRSH tăng dần qua các năm, đến hết năm 2024 đạt 97,26% ở đô thị, 80,5% ở nông thôn, giảm hình thức chôn lấp; việc tái chế, tái sử dụng, tận dụng giá trị tài nguyên từ chất thải được tăng cường thông qua các hình thức như đồng xử lý chất thải trong lò nung xi măng, tận dụng nhiệt dư từ đốt rác, sản xuất xi măng để phát điện; đã giảm mạnh lượng tồn đọng tro, xỉ, thạch cao phát sinh từ các nhà máy nhiệt điện, phân bón, hóa chất. Các địa phương đã và đang từng bước xây dựng hạ tầng xử lý chất thải với công nghệ tái chế, xử lý kết hợp thu hồi năng lượng thay cho chôn lấp CTRSH; áp dụng công nghệ mới, tiên tiến như đốt có thu hồi năng lượng và phát điện... để xử lý CTRSH sau phân loại, tận dụng tối đa giá trị tài nguyên của chất thải, góp phần phát triển nền kinh tế tuần hoàn; thí điểm tính giá dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý dựa trên khối lượng, thể tích.

Thứ năm: Tốc độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường đã được ngăn chặn, chất lượng môi trường từng bước cải thiện, đặc biệt là chất lượng môi trường đất, môi trường nước mặt một số lưu vực sông chính, nước biển ven bờ, nước dưới đất.

Thứ sáu: Công tác ứng phó với biến đổi khí hậu có chuyển biến tích cực; khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội được nâng cao, bảo đảm sinh kế bền vững; kiểm kê khí nhà kính tại các doanh nghiệp đã được triển khai thực hiện; việc chuyển đổi xanh trong các ngành, lĩnh vực hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 được thúc đẩy mạnh mẽ; hành lang pháp lý về phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam đã và đang được hình thành. Về ứng phó biến đổi khí hậu tại Đồng bằng sông Cửu Long, nhiều giải pháp công trình và phi công trình đang được triển khai.

Phòng ngừa, kiểm soát và ngăn chặn từ sớm, từ xa các nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường - ảnh 3
Các đại biểu dự kỳ họp

Bên cạnh những kết quả đạt được, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, Đoàn giám sát nhận thấy, việc tổ chức thực hiện Luật BVMT năm 2020 còn một số hạn chế, bất cập như:

Một là: Tình trạng ô nhiễm môi trường còn xảy ra, vẫn còn diễn biến phức tạp, có thời điểm ở mức độ nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm không khí (do bụi mịn) tại các thành phố lớn; chỉ số chất lượng không khí có thời điểm vượt ngưỡng an toàn, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe người dân, có những lúc Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh rơi vào nhóm đô thị ô nhiễm nhất thế giới. Chất lượng môi trường một số đoạn sông tập trung tại khu vực đông dân cư, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, làng nghề trên lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy, hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải chậm được cải thiện. Chưa hoàn thành chỉ tiêu về tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý. Theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, đến năm 2025, 100% cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải được xử lý, nhưng đến tháng 9/2025, cả nước vẫn còn 38/435 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa hoàn thành xử lý triệt để.

Hai là: Hạ tầng kỹ thuật về BVMT, nhất là trong thu gom, xử lý CTRSH, nước thải còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu (hiện nay chỉ có khoảng 18% tổng lượng nước thải đô thị được thu gom, xử lý; tỷ lệ chôn lấp trực tiếp tuy đã giảm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao, nhiều bãi chôn lấp gây ô nhiễm môi trường chậm được xử lý). Cả nước mới có 31,5% cụm công nghiệp và 16,6% làng nghề đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt yêu cầu về BVMT. Việc ban hành, triển khai các chính sách mới về phân loại, thu gom, vận chuyển, tái chế và xử lý CTRSH chưa đúng lộ trình quy định, chưa hiệu quả do thiếu hạ tầng phân loại, thu gom, xử lý đồng bộ. Mặc dù Luật BVMT năm 2020 và các văn bản hướng dẫn đã có quy định về thu gom chất thải đặc thù (điện tử, pin, tấm quang năng) gắn với trách nhiệm tái chế của nhà sản xuất (EPR) nhưng thực tế hạ tầng thu gom, tái chế cho các loại chất thải này vẫn còn hạn chế. Công nghệ sản xuất trong các cơ sở sản xuất nhìn chung còn lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng, nước, sử dụng tài nguyên kém hiệu quả; việc nhập khẩu trái phép công nghệ cũ vẫn chưa được kiểm soát, ngăn chặn triệt để.

Ba là: Việc tuần hoàn, tái sử dụng nước thải, tái chế một số loại chất thải rắn công nghiệp vẫn còn hạn chế; một số loại chất thải nguy hại, bao bì hóa chất bảo vệ thực vật phát sinh từ hộ gia đình... chưa được thu gom, xử lý riêng mà lẫn trong CTRSH; tại một số địa phương, cơ sở y tế gặp khó khăn trong việc thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn y tế nguy hại.

Bốn là: Một số mục tiêu chính sách của Luật BVMT thể hiện trong các pháp luật khác có liên quan chưa đạt hiệu quả mong muốn như: mục tiêu thúc đẩy thay đổi hành vi, thói quen tiêu dùng thông qua pháp luật về thuế, phí về BVMT; mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ BVMT Việt Nam để thúc đẩy các dự án về BVMT thông qua pháp luật về NSNN; mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ tư vấn lập hồ sơ về môi trường.

Năm là: Tình trạng đơn thư khiếu nại, tố cáo về môi trường, tội phạm, vi phạm pháp luật về BVMT còn xảy ra tại một số địa phương, có vụ việc diễn biến phức tạp, gây mất trật tự an toàn xã hội.

Theo Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh, báo cáo của Ủy ban Dân nguyện và Giám sát của Quốc hội, có các vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị liên quan đến hoạt động của một số cơ sở chăn nuôi quy mô tập trung xả thải ra môi trường; hoạt động tập kết, xử lý rác thải tại một số địa phương; hoạt động của một số cơ sở sản xuất có phát sinh khí thải gây ô nhiễm môi trường; dự án công viên nghĩa trang… đã gây tác động lớn đến sinh hoạt của người dân trong khu vực. Phần lớn việc giải quyết của các cấp chính quyền địa phương mới chỉ dừng ở mức độ yêu cầu chủ đầu tư hạn chế sự tác động xấu của dự án, công trình ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt và sản xuất của người dân mà chưa có những giải pháp căn bản hơn giải quyết dứt điểm tình trạng ô nhiễm môi trường.

Đề cập về nguyên nhân của những hạn chế, bất cập, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, nguyên nhân khách quan là do tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19 và biến động kinh tế; sự gia tăng dân số cơ học và quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ; biến đổi khí hậu và thiên tai diễn biến phức tạp và cực đoan; tác động từ quá trình hội nhập, toàn cầu hóa, các vấn đề môi trường xuyên biên giới; khả năng làm chủ công nghệ còn thấp; việc trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon còn mới, gây khó khăn trong xây dựng, hoàn thiện các quy định trong nước...

Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, việc ban hành, triển khai các chính sách mới về phân loại, thu gom và xử lý CTRSH chưa bảo đảm đúng lộ trình quy định. Một số định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá còn lạc hậu chưa tạo động lực đủ mạnh thúc đẩy xã hội hóa đầu tư cho BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu, trong khi việc bố trí nguồn lực từ NSNN chưa được quan tâm đúng mức, chưa tương xứng với nguồn thu từ thuế, phí BVMT.

Nguyên tắc "người gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý” chưa được áp dụng triệt để; một số tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn kỹ thuật về tái sử dụng nước thải, chất thải rắn công nghiệp chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế tuần hoàn, sự phát triển nhanh của khoa học, công nghệ. Lộ trình thực hiện một số nội dung còn chậm như: thành lập thị trường các-bon trong nước, chuyển đổi phương tiện giao thông sử dụng nhiên liệu hóa thạch...