Cuộc 'cách mạng' lần thứ 3 của lúa gạo Việt Nam: Hạt gạo xanh cho tương lai

Admin
(Chinhphu.vn) - Tại Hội nghị Xúc tiến đầu tư FDI Nhật Bản ngày 12/12 ở Cần Thơ, các chuyên gia Việt – Nhật nhận định ngành lúa gạo Việt Nam đang bước vào cuộc cách mạng lần thứ ba, chuyển từ mô hình sản xuất truyền thống sang hệ sinh thái xanh – số, phát thải thấp và có giá trị gia tăng cao. Hạt gạo Việt được kỳ vọng sẽ bước sang thời kỳ phát triển mới, cạnh tranh hơn trên thị trường toàn cầu.
Cuộc 'cách mạng' lần thứ 3 của lúa gạo Việt Nam: Hạt gạo xanh cho tương lai- Ảnh 1.

Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn Lê Đức Thịnh trao đổi tại Hội nghị - Ảnh: VGP/LS

Ba lần 'chuyển mình' của hạt gạo Việt

Phát biểu trực tuyến từ Nhật Bản, ông Hagiwara Hideki, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Xuất khẩu và Hợp tác quốc tế, nhấn mạnh mối quan hệ hợp tác bền chặt giữa hai nước trong lĩnh vực nông nghiệp. Từ giống lúa đến kỹ thuật gieo trồng, từ bảo quản đến đào tạo nhân sự, cho đến các dự án nông nghiệp công nghệ cao theo chuẩn JGAP và GlobalGAP, Việt Nam và Nhật Bản đã cùng nhau tạo dựng nền tảng để nâng tầm ngành lúa gạo.

Nhìn lại quá trình phát triển lúa gạo, các chuyên gia nhận định hạt gạo Việt đã trải qua ba cuộc cách mạng quan trọng. Lần thứ nhất, trong thập niên 1960–1970, Việt Nam bắt đầu ứng dụng công nghệ sinh học vào chọn tạo giống; các giống lúa ngắn ngày, chống đổ ngã, chịu hạn, năng suất cao được lai tạo thay thế dần giống dài ngày truyền thống. Việc nhập khẩu và khảo nghiệm giống IRRI, cùng với sử dụng phân bón hóa học, đã đặt nền móng cho nông nghiệp hiện đại.

Cuộc cách mạng lần thứ hai đến sau Nghị quyết 10/1988, khi hộ nông dân được trao quyền tự chủ. Sự thay đổi về thể chế làm bùng nổ năng lực sản xuất, giúp Việt Nam chuyển mình chỉ trong vài năm: Từ thiếu đói đến xuất khẩu gạo năm 1989, mở ra một giai đoạn tăng trưởng nhanh và bền vững.

Cuộc cách mạng lần thứ 3 của lúa gạo Việt đang diễn ra từ năm 2023, được xác định là cuộc cách mạng Xanh – Số, gắn với Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng ĐBSCL giai đoạn 2023–2030. Mục tiêu không chỉ là tăng năng suất, mà còn “xanh hóa” chuỗi giá trị, giảm phát thải khí nhà kính và gia tăng giá trị cho hạt gạo Việt trong bối cảnh thế giới ưu tiên nông nghiệp bền vững.

Hệ sinh thái lúa gạo xanh – số: Nền tảng mới cho ĐBSCL

Tại hội nghị, ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển Nông thôn, khẳng định hợp tác FDI với Nhật Bản lần này hướng tới xây dựng một hệ sinh thái sản xuất lúa gạo hiện đại. Theo ông, hệ sinh thái đó bao gồm tổ chức nông dân theo mô hình HTX, liên kết chuỗi giá trị lúa gạo giảm phát thải, chuyển đổi số và tham gia thị trường carbon. Mục tiêu sâu xa là tạo lập một chuỗi giá trị khép kín từ giống, sản xuất, thu hoạch, chế biến đến tiêu thụ, một mô hình tiên tiến mà nhiều quốc gia đang theo đuổi.

Sau 2 năm thực hiện đề án, ngành lúa gạo đạt nhiều kết quả đáng chú ý. Thí điểm tại 11 điểm với diện tích 543,5 ha và 355 hộ tham gia cho thấy năng suất tăng trung bình 5,12 tạ/ha, chi phí giảm từ 1,7 đến 4,9 triệu đồng/ha, và giá thành giảm từ 326 đến 1.052 đồng/kg lúa. Kỹ thuật tưới ngập khô xen kẽ giúp rút nước 2–3 lần/vụ, đồng thời giảm 3,7 tấn CO₂e/ha/vụ. Đến nay, đã có 354.800 ha được chứng nhận sản xuất bền vững tại 6 tỉnh vùng ĐBSCL, trong đó diện tích VietGAP là 7.493 ha, hữu cơ 246 ha, còn diện tích an toàn thực phẩm đạt 5.659 ha. Một số chuỗi gạo xanh của doanh nghiệp Trung An, Tân Long đã bắt đầu hình thành và hoạt động hiệu quả.

Dù vậy, hội nghị nhấn mạnh rằng thành công bước đầu chỉ là nền móng cho chặng đường dài phía trước. Trong giai đoạn sắp tới, ngành lúa gạo phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ ở tất cả khâu: Từ chăm sóc đất, tưới và quản lý rơm rạ; đến chế biến sâu và logistics giảm thất thoát; cho đến chuyển đổi số toàn chuỗi, truy xuất nguồn gốc chuẩn quốc tế, xây dựng nền tảng số dùng chung và áp dụng IoT, robot, Big Data trong quản trị nông nghiệp.

Cuộc 'cách mạng' lần thứ 3 của lúa gạo Việt Nam: Hạt gạo xanh cho tương lai- Ảnh 2.

Trong giai đoạn sắp tới, ngành lúa gạo phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ ở tất cả khâu: Từ chăm sóc đất, tưới và quản lý rơm rạ; đến chế biến sâu và logistics giảm thất thoát - Ảnh: VGP/LS

Nhiều thách thức đặt ra cho hạt gạo Việt

Bên cạnh cơ hội lớn từ mô hình sản xuất xanh – số, hội nghị cũng chỉ ra những thách thức hiện hữu mà ngành lúa gạo phải đối mặt. Đó trước hết là biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt. Những trận mưa trái mùa, nguồn nước thay đổi bất thường và triều cường khó lường đang làm đảo lộn lịch thời vụ của nông dân ĐBSCL. Nhiều nơi buộc phải thay đổi mô hình canh tác, chuyển sang trồng xen vụ hoặc chọn cây trồng khác phù hợp hơn.

Thách thức thứ hai là khoảng cách công nghệ. Trong khi thiết bị, máy móc, ứng dụng số phát triển nhanh, lực lượng lao động trực tiếp trong nông nghiệp lại có tốc độ tiếp cận hạn chế, phần lớn là lao động lớn tuổi, ít điều kiện tiếp xúc với công nghệ mới. Việc chuyển giao kỹ thuật vì thế đối mặt nhiều rào cản, ảnh hưởng đến tiến độ chuyển đổi xanh – số.

Ngoài ra, thị trường gạo thế giới ngày càng biến động. Nhu cầu tiêu thụ có thể thay đổi đột ngột do yếu tố xã hội, chính trị hay thu nhập tại các quốc gia nhập khẩu. Ngành gạo Việt chịu nhiều áp lực hơn trong việc duy trì chất lượng, ổn định sản lượng và đảm bảo khả năng cạnh tranh về giá trị.

Hạt gạo Việt trong kỳ vọng mới

Các đại biểu tại hội nghị chia sẻ kỳ vọng rằng cuộc cách mạng lần 3 sẽ tạo nên bước ngoặt lịch sử cho hạt gạo Việt. Nếu cuộc cách mạng lần 1 là nâng năng suất, lần thứ hai là trao quyền sản xuất, thì lần 3 là cuộc tái thiết toàn diện để đưa gạo Việt Nam tiến sâu hơn vào thị trường cao cấp và bền vững.

Hợp tác với Nhật Bản, quốc gia có nền nông nghiệp công nghệ cao được xem là cơ hội vàng để học hỏi mô hình sản xuất xanh, tăng tính minh bạch và nâng chuẩn chất lượng. Những mô hình thí điểm mang lại hiệu quả rõ rệt đang tạo niềm tin cho doanh nghiệp và nông dân trong quá trình mở rộng quy mô.

Hạt gạo Việt, nhờ đó, mang trong mình kỳ vọng mới: Không chỉ đáp ứng nhu cầu lương thực mà còn trở thành sản phẩm xanh, sản phẩm trách nhiệm, có chỗ đứng rõ ràng hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Lê Sơn

Tham khảo thêm
Tham khảo thêm
Bảo hiểm cây lúa: ‘Lá chắn’tài chính cho chuỗi sản xuất – tiêu thụ lúa gạoBảo hiểm cây lúa: ‘Lá chắn’tài chính cho chuỗi sản xuất – tiêu thụ lúa gạo
Tham khảo thêm
Thúc đẩy chế phẩm sinh học trên lúa: 'Tấm vé xanh' cho hạt gạo ViệtThúc đẩy chế phẩm sinh học trên lúa: 'Tấm vé xanh' cho hạt gạo Việt